Buổi chiều trước đêm không vé, con sông Hậu nằm nghiêng như một người đi đồng về vừa gác cuốc bên thềm đã kịp chậm lại hơi thở để lấy nhịp ăn cơm, mặt nước phẳng đến nỗi những sợi tơ nắng cuối ngày rơi xuống nghe như tiếng ai gỡ chỉ khỏi đường khâu trên khăn, mùi bùn ròng từ dưới phên bốc lên hòa với mùi lá dứa mẹ hãm sẵn từ lúc mặt trời còn lơ lửng sau hàng bần, làm gian chòi rối dậy lên thứ ấm dễ chịu của một cái bếp được trông nom bởi người cũ, Thu An đặt tay lên mép phên, thấy lớp dầu bóng đã thấm vào da tre như lời dặn đã thuộc vào cổ tay người kéo, rồi rót hai chén nước, một chén đẩy về phía mẹ, chén kia đặt sát mép khăn nơi đường chỉ xanh như bờ ruộng được kẻ thẳng, nó nói nhỏ như nói với nước “bữa nay đừng cần vé, chỉ cần hơi”.
Từ trưa, trưởng ấp đã đi dọc bờ rà lại vạch phấn, tay cầm một cây thước dài gỗ sến mòn cạnh, miệng nhắc “lối vào bên trái, lối ra bên phải”, giọng không cao nhưng dứt, anh thợ dây bữa trước mang đến mấy cây đèn dầu cũ đã thay bấc, xin đặt sau tấm vải thô “màn nghỉ” để ánh thở chứ không ánh nói lớn, nhóm nước ở góc râm kê lại chiếc bàn tre thấp với tấm giấy viết bút lông “Xin uống nước chậm” mép đã loang mưa nhưng chữ còn hiền, họ thêm một cái thau nhỏ để hứng nắp chai, cột bằng sợi dây chuối khô để khỏi lăn, mấy đứa nhỏ trong xóm, đầu tóc còn mùi nắng ruộng, chạy vòng quanh cầm theo tấm bảng “Xin ngồi yên” con Nụ rửa sạch, mặt phấn trắng như răng sún của nó, bà Bảy bày ghế tre lót chiếu ở xa, bảo “đêm không vé thì ghế cũng không gọi tên ai, ai tới trước ngồi trước, miễn ngồi yên”.
Phúc tới sớm một khắc, treo tờ báo “Chậm” vừa in ở vách, góc ảnh là một khoảng trống nhiều hơn người, dưới ảnh là dòng chữ anh nắn nót “chậm để nước nghe kịp”, anh bảo tối nay anh đứng phía bờ chợ, chỗ gió xô nhiều, để kể bằng miệng cho mấy ông chạy xe đò không kịp ghé, còn máy ảnh thì để yên trừ khi có khoảnh khắc cần giữ cho người vắng mặt, Khoa vác hộp máy, không bật ngay, nói sẽ ghi một đoạn dài hơn mười giây nhưng vẫn ít hơn thói quen ngoài phố, đặt tên “không vé”, chỉ có tiếng chập chõa đi qua gió, ông Trọng ôm ống mực tàu, bảo chữ bữa nay treo thấp dưới mắt người lớn mà ngang mắt trẻ con, sẽ viết “chia” như lời bà Bảy đã nói mấy đêm trước, để ai bước vào cũng thấy chữ nằm sát bờ như một cục đá kê chân sào.
Xế, một người đàn ông tóc điểm bạc, đeo kính gọng mảnh, tự xưng là chủ một quán cà phê sách ở thị trấn, chạy chiếc xe gắn máy sơn đã bạc màu, đến chào bằng giọng rụt rè “tui không đem vé, chỉ đem mấy cái ly sạch”, xin đặt ở góc râm cho ai mang theo nước ấm thì rót ra uống, ông đặt mấy ly xuống, lau một vòng bằng khăn thô, rồi ngồi im nhìn sông, lâu lâu thở ra như người vừa kịp nhận ra mình đi nhanh quá lâu rồi, một chị bán hàng rong gánh qua cũng ghé, bưng rổ bánh ít lá gai còn ấm phả lên má, bảo “đêm không vé thì tui cũng không bán, đặt đây ai ăn thì bẻ một miếng rồi nói ‘ơn’ là được”, nói xong cười, răng đen bởi trầu nhưng mắt long lanh, Thu An gật, xin chị treo chữ “ơn” sát rổ, chị bảo “để tui viết bằng than cho giống màu bếp”, cô My đứng gần đó đưa cây bút lông, chị dùng luôn, chữ “ơn” uốn mềm như sợi khói vừa rời khỏi lò.
Khoảng hoàng hôn, gió từ vàm kéo vào một vệt mát phớt, bầy đom đóm ngoài ruộng lấp lánh như những dấu chấm sắp đặt cuối câu, tiếng côn trùng lên đều tay, bờ sông bắt đầu có người, có đôi vợ chồng già dắt theo nhau, bước chậm trên ván tre như đi trên ký ức, có mấy anh công nhân ở khu công nghiệp về sớm, tay còn dính dầu máy, mắt ngơ ngác như vừa ra khỏi một xưởng loa, có cô sinh viên mang theo cuốn vở bìa mềm muốn chép mùi bằng chữ, có đám trẻ con xóm dưới nhắc nhau “đừng chen”, có một nhóm người thành phố đi lạc bằng vẻ lịch sự không bày đặt, họ rụt rè tự ngồi xuống mép sau khi đọc tấm bảng “Xin nói nhỏ”, đám người không vé ghép thành một bờ yên bằng thói quen được hướng dẫn mà không bị sai khiến, con Nụ đi dọc theo hàng ghế, giơ bảng như người thổi kèn không thổi mà ai cũng nghe.
Thu An nhìn kim đồng hồ đeo tay không số, chỉ kim, khi kim chạm đúng mốc đã hẹn với mạch nước, nó ra hiệu bằng một ngón tay, ông Sáu rướn nhẹ vai, kéo dây đờn xuống nửa cung để tiếng đi như hơi thở người trở mình, cô Ba đặt chập chõa ngang gối, ngón áp út chạm mặt đồng gọi dậy một tiếng khẽ như tiếng cửa lá xách trong bếp mở hờ, ánh trên mái bật một nấc rồi rút xuống nửa nấc, hắt qua tấm vải thô “màn nghỉ” làm nảy lên một lớp ấm không chói, mùi lá dứa thả một hơi ở nấc thấp như người chào khe khẽ, khói đi ngang mặt phên không vội, con cá gỗ mới chà dầu bóng ngậm nước, lướt vào đợt sóng thứ nhất như bước qua ngạch cửa nhà không đụng chân, đợt thứ hai nhận bằng một cú nhẫn vai, đợt thứ ba được mặt nước đỡ lên một lớp bạc non, tiếng chập chõa khóa đúng chỗ, người bờ thở ra cùng nhau, không ai vỗ tay vì câu chuyện còn ở đầu, không ai nhúc nhích vì nhịp thở còn đang nối.
Ở hàng sau, một bé trai chừng bảy tuổi ngồi trên đùi cha hỏi rất khẽ “rồng đâu”, người cha đặt tay lên ngực con, thì thào “đợi nước nói đã”, câu trả lời lọt qua tai Thu An như một hạt phù sa rơi đúng chỗ, nó hạ ánh nửa bậc nữa, nhường cho vệt trăng vừa nhú sau bóng bần rơi xuống mặt nước, trăng đêm này không tròn, chỉ như vỏ hến mài, nhưng đủ để vẽ một đường mềm trên lưng cá, con cá ngóc đầu một phân vừa đủ để người bờ nhìn thấy mà không thấy “kỹ xảo”, Phúc đứng xa mỉm cười, tay đặt lên dây đeo máy như đè xuống cái ham bấm, Khoa nghiêng đầu, mắt ghi thay ống kính, ông Trọng ngồi dưới cột “chia”, bút mực gác lên mép tách như chờ hiểu thêm một chữ mới.
Đúng lúc mọi thứ như khớp vào nhau, một chiếc xe máy chạy ngang đầu bờ, ống pô già rền lên một tiếng cộc cằn, cả bờ rung nhẹ, con cá khựng một nấc, con Nụ ôm chặt bảng, mắt nhìn sang tờ “Xin nói nhỏ” như nhắc người lạ đang đi ngang hiên, Thu An không hoảng, tay rời công tắc, để im, ông Sáu thả dây xuống, cô Ba kéo một nhịp dài, mùi lá dứa lùi một bước, gió ngoài vàm như nhớ ra mà hạ giọng, người lái xe dừng lại, rút chìa khóa, xuống xe đẩy bộ qua bến, miệng gãi đầu “xin lỗi bờ”, một tiếng xin lỗi khô như một hòn đá rơi vào mặt nước, rồi tan, để lại vòng tròn mỏng, bờ nối lại câu chuyện như chưa từng vấp, chỉ có tiếng thở ra đồng loạt như sau một cái nấc.
Câu chuyện đi tới giữa khi mùi lá dứa vừa tròn, tiếng đờn vừa ấm, ánh vừa yên, Thu An rút tay khỏi công tắc đúng lúc một luồng gió mềm mang theo mùi lúa chín lùa qua tóc người bờ, nó nhường gió, để gió làm đạo cụ như đã hẹn, con cá nhận nâng, lưng gỗ mở một vảy mờ, người bờ nhìn không rõ mà lại thấy rõ, thấy cái vừa đủ, thấy cái nhịn, thấy cái bớt, thấy cái ơn, thấy cái rành, thấy cái yên, thấy cái nghe; cô sinh viên ở hàng sau mở sổ viết đúng bốn chữ “yên có hình”, rồi đóng lại, ngồi yên tiếp, không đuổi theo chữ nữa, những anh công nhân vừa rời ca ca đêm đặt tay lên đầu gối, vai rơi xuống khỏi tai, cả người như bỏ mũ bảo hộ ra mà không tới mức trần trụi, một bà cụ rì rầm “đêm giống hồi trước”, có lẽ là trước cả thời điện, trước cả thời loa.
Đến khúc nghỉ giữa đợt thứ tư, thay vì để cá bốc lên, Thu An để cá nằm im, ánh hạ xuống nửa nấc, chập chõa im, đờn im, bờ im, một khoảng im dài hơn thường, dài đến mức ai đó quen nhạc phố sẽ tưởng như lỗi, nhưng ở đây, khoảng im ấy giống như một cái bậc nghỉ cho đầu gối người gánh, giống như một miếng chiếu lót giữa hai vạt sạp, giống như một khoảnh khắc người mẹ đặt chén xuống để kéo lại đường chỉ xanh trên khăn, im nhưng đầy tiếng thở, im nhưng đầy mùi ấm, im nhưng đầy mắt nhìn, rồi đúng lúc ấy, từ phía ao liễu như có con gió dìu về, con cá bỗng rung lưng một nhịp nhỏ, nhè nhẹ như người cười trong cổ, cả bờ mấp máy một chữ “ừ” không phát ra, vậy là đủ.
Sau màn chính, “đêm không vé” mở góc “tay nghề bờ bãi” như đã hứa mà không hẹn giờ, bọn trẻ con đứng vào hàng, mỗi đứa một sợi dây chuối khô, một chiếc lá dứa, một chén nước đặt trên lòng bàn tay, Thu An dạy nút trượt, dạy tháo khẩn, dạy “kéo theo hơi chứ đừng theo mạnh”, dạy “ngửi bằng mũi nhưng nhớ bằng tay”, cô Ba gõ đúng hai tiếng cách nhau một hơi dài để bọn nhỏ đo bằng ngực chứ không bằng đồng hồ, ông Sáu kéo một dây như hơi thở rót chậm vào khung xương, My đưa từng mảnh giấy dầu “mồ hôi vảy cá” cho bọn nhỏ sờ, dặn xong thì bỏ xuống, không đem về túi, ông Trọng treo tờ “chia” thấp, đọc nhỏ như lời ru: “chia chỗ ngồi – chia cách nghe – chia mùi ấm – chia chữ ít – chia yên đầy”, người bờ dạ thành hàng, những tiếng “dạ” rơi đều như hạt mưa hiền buổi hôm qua.
Một chuyện nhỏ mà về sau ai cũng kể lại như dấu chấm lửng của đêm: có cô gái làm công nhân may ở khu công nghiệp đứng ngoài rìa, tay vẫn đeo thước dây, nhìn mãi mà chưa dám bước vô, con Nụ ôm bảng chạy tới, chìa cho cô một đầu dây chuối khô, cô cười, ngượng, nói “tay em vụng”, Thu An nghe, bước ra, để cô cầm sợi dây cùng mình, chỉ chỗ thắt, chỉ chỗ gỡ, chỉ chỗ nhịn, cô buộc một nút trượt chật quá, không tháo được, mặt bối rối, Thu An đặt ngón cái cô vào đúng chỗ, bảo “kéo theo hơi”, nút mở, cô thở ra, cười, tiếng cười không giòn mà ướt, như tiếng người gặp lại một trò của thời nhỏ, người đứng quanh không vỗ tay, chỉ cắn nhẹ môi để tiếng cười khỏi to, nhưng ai cũng ấm.
Gần cuối đêm, đoàn thanh niên thị trấn nhón chân vào, xin đứng góc bến giữ vạch phấn nếu người đông thêm, trưởng ấp gật, giao cho họ một đoạn dây mềm, dặn “đêm không vé thì tay mình càng mềm”, họ nghe, đứng lùi, không giành chỗ của bảng, không che mắt mấy bà cụ, không giục ai, chỉ cúi xuống nhặt cái vỏ kẹo thỉnh thoảng rơi, đặt vào thau rỗng bên dưới tấm “uống chậm”, có đứa lấy điện thoại ra, rồi nhìn bảng “Xin nói nhỏ”, cất vào túi, cười, răng trắng như hai cái bông súng non.
Hết buổi, chẳng có tiếng yêu cầu thêm bài, cũng không có tiếng còi giải tán, người ta đứng lên như người dậy khỏi mâm cơm đúng lúc, đặt chén xuống không kêu, cúi đầu một cái rất nhỏ với bờ, với nước, với tấm bảng, với người ngồi kế bên, với mùi còn vương trong áo, rồi đi về lối đã vạch, bước chân không dồn, tiếng giày dép không giành, chỉ nghe tiếng côn trùng tiếp tục may trời thành một tấm vải mịn, trên góc râm, tấm bảng “Xin uống nước chậm” vẫn còn chữ, thau nắp chai đầy nửa, rổ bánh ít lá gai vơi đi vừa đủ, chị bán hàng rong kéo quai gánh lên vai, nói “tui no ‘ơn’ rồi”, cười, lộ hàm răng đen bóng như một dòng sông đêm.
Người cuối cùng rời bờ là ông chú chạy xe máy đã tắt máy đẩy bộ hồi đầu buổi, ông đứng lại nhìn mặt sông thêm một lát, rồi cúi đầu với bảng, nói khẽ “bữa sau tui tới sớm, khỏi ầm”, rồi dắt xe đi, trên nền tre, chỗ ông đứng còn lại một vệt khô nhỏ như chỗ cát mới được gió vuốt.
Thu dọn đêm không vé cũng như dọn bếp sau đám giỗ mà khách toàn người nhà: anh Hai cuộn dây, Tín cởi nút, My lau mặt phên bằng khăn vắt kỹ để mùi lá dứa còn thấm một chút, ông Sáu thả lỏng dây tơ như tháo giày cho ngón chân nghỉ, cô Ba phủ vải cho mặt đồng nguội chậm, Phúc tháo tờ “Chậm” cất vào ống bìa để khỏi ướt sương, Khoa cất máy mà lòng còn rung một nhịp không tên, ông Trọng xếp ống mực, chấm bút viết lên giấy dó hai chữ “đủ rồi”, treo cạnh “chia” như một con mắt thứ hai, bà Bảy đếm áo phao, rửa mấy cái ly sạch quán cà phê sách gửi, phơi nghiêng cho ráo, nhón muối thả vào ấm nước như thói quen, rồi gấp khăn lên bàn thờ Tổ, đường chỉ xanh nằm ngay ngắn như cái bến đã dọn sạch.
Thu An ngồi xuống bậc tre, mở sổ, chép “đêm không vé – bờ đủ chỗ – người chậm chân vẫn tới – mùi đi trước vé – ánh hạ sau tiếng – chữ ‘chia’ treo thấp – ‘uống chậm’ còn nước – bánh ít lá gai đủ ấm – xin lỗi ầm – thở đồng loạt – khoảng im dài – ‘ừ’ không phát”, bút máy thấm mực đều tay như mái chèo đi trong đêm nước lặng, nó chép thêm tên người đã góp vào đêm: chị bán hàng rong viết chữ “ơn”, anh thợ dây để đèn dầu, ông chủ quán cà phê mang ly sạch, đoàn thanh niên giữ vạch mềm, người lạ đẩy bộ qua bến, cô công nhân may gỡ nút trượt, đứa bé hỏi “rồng đâu” rồi nghe câu trả lời “đợi nước nói”, mỗi cái tên là một hạt cốm dẻo rải vào bờ.
Khuya rót xuống bờ như ai rót mật ong vào lòng chén men ngà, con Nụ ngủ gục ôm bảng, mép phấn dính một vệt nhỏ lên gò má, trông như có ai đặt một dấu chấm than trắng lên giấc mơ nó, đom đóm gom lửa ở mé ruộng, mái rơm thở đều, mùi bùn ròng hiền như một bài học thuộc, Thu An kéo bấc đèn hạ xuống một chấm, ngồi lâu, tay vẽ trong không khí một sợi chỉ nối từ chữ “chia” treo thấp đến vạch phấn dẫn lối, từ vạch phấn đến cái ghế tre không tên, từ ghế tre đến chén nước trong tay đứa nhỏ, từ chén nước đến lưng cá gỗ, từ lưng cá đến công tắc đèn mà tay vừa nhường, từ công tắc đến tấm vải thô “màn nghỉ”, từ tấm vải đến góc râm “uống chậm”, từ góc râm đến mép khăn đường chỉ xanh, sợi chỉ ấy đi qua những “không” – không vé, không loa, không drone, không kèn, không giục – để buộc vào những “có” – có yên, có mùi, có tiếng, có ánh, có ơn, có nhịn, có rành, có vừa, có nghe, có chia – buộc xong thì buông, không siết, để sáng mai khi trời mở mắt, khi thủ từ ao đình nhắn “bữa nay dọn ao”, khi cô giáo thị trấn hỏi “lớp yên nữa không”, khi Sở xin “một buổi không lời bình”, khi nhóm nước ở góc râm xin giữ bảng thêm tuần, khi ông chủ quán cà phê sách hẹn đem thêm ly, khi anh thợ dây đề nghị thay một sợi cũ, khi Khoa gửi bản “không vé” chỉ có mười lăm giây im, khi Phúc bảo bài sau sẽ viết “chia chỗ ngồi”, gánh sẽ biết cách gật đúng chỗ, dạ đúng câu, hạ đúng nấc, nâng đúng hơi.
Trước khi vào ngủ, bà Bảy đặt tay lên vai con, mắt sâu như giếng, nói “đêm không vé mà không lạc, vì bờ rành chỗ bớt, vì mùi vừa, vì tay nhịn, vì bụng ơn, vì tiếng yên, vì tai nghe, vậy mai sang ao đình nhớ dạy tụi nhỏ bên đó cách ‘đứng im đúng ba phút’ trước khi buộc nút, nhớ dặn một câu ‘chậm để nước nghe kịp’”, Thu An dạ, tiếng “dạ” nhỏ như hạt mưa gặp mái rơm, nó gối đầu lên tập sổ, còn bàn tay thì vẽ tiếp sợi chỉ nối từ bờ đêm nay sang bờ mai, qua rễ liễu, qua bậc đá, qua gian hậu đình có bức ảnh đen trắng, qua tấm bảng phấn con Nụ sẽ ôm, qua tiếng chập chõa cô Ba sẽ gõ, qua dây đờn ông Sáu sẽ kéo, qua mái chèo Tín sẽ đặt, qua sào anh Hai sẽ giữ, qua mực tàu ông Trọng sẽ chấm, qua ống giấy My sẽ mở, qua máy Khoa sẽ bật ít, qua chữ Phúc sẽ viết chậm, sợi chỉ ấy đi đến đâu thì tiếng nước ở đó đổi trong, ánh ở đó bớt, mùi ở đó lặng, người ở đó thở chậm, rồi quay về nằm trên đường chỉ xanh của chiếc khăn, khấn thầm hai chữ “đủ êm”.
Đêm qua khỏi mái, con sông Hậu nghe như một người kể chuyện vừa ngậm nước lá dứa, nuốt chậm, hắng giọng, chuẩn bị nói câu mới, mà câu mới ấy không cần vé, chỉ cần bờ, cần nước, cần người ngồi đúng chỗ, cần chữ treo thấp, cần mùi thả vừa, cần tiếng đi sau hơi, cần ánh đi sau tiếng, cần một khoảng im dài để ai cũng kịp nhớ lại tên nhau, rồi bơi tiếp, chậm rãi, ngang qua trăng mỏng như vỏ hến, ngang qua tiếng dế ở ruộng, ngang qua rổ bánh ít lá gai còn ấm, ngang qua cái thau đựng nắp chai đầy nửa, ngang qua vệt khô của người đàn ông đẩy bộ, ngang qua dấu phấn trắng trên má con Nụ, ngang qua sợi chỉ vô hình đang chờ buộc thêm một mối ở một bờ liễu nào đó mai này.




Bình luận
Chưa có bình luận