Chương 18: Mưa học lời



Buổi sớm hôm ấy kéo tới như một tấm mền bông cũ thơm mùi nắng cũ được ai đó lặng lẽ lắc nhẹ cho bụi thời gian bay đi, rồi phủ nhẹ lên bờ sông Hậu những hột nước nhỏ như hạt thóc vừa gỡ khỏi bông, mùi bùn ròng từ dưới phên đi lên không gắt mà lại mượt như cháo gạo rang, lẫn vào mùi lá dứa mẹ hãm từ canh khuya khiến gian chòi rối phập phồng như một cái bếp đang mở nắp nồi đúng lúc, Thu An đẩy then, đưa ngón tay miết qua mép phên nơi dầu bóng đã thấm vào thớ, nghe một tiếng “yên” rất nhỏ như nốt nhạc rơi vào quai ấm, bèn rót hai chén nước, chén của mẹ đẩy về phía khăn có đường chỉ xanh, chén của mình đặt sát mép ván còn ướt hơi, nói thầm với nước một câu đã hóa thành thói quen “hôm nay mình học trong mưa”.

Mẩu giấy của Phòng văn hóa nhắn đêm qua bảo “một lớp yên thử nghiệm dưới mưa nhẹ cho mấy lớp thị trấn”, dặn mang áo mưa mỏng, dặn đặt sẵn đường thoát nước, dặn giữ cho chén lá dứa đừng bị lạt, dặn thêm một dòng “nếu gió nổi quá thì rút”, bà Bảy nghe xong lúc ấy chỉ gật, nhón muối thả vào ấm như mỗi buổi có điều cần nhắc nhớ, bảo “mưa dạy người ta nói nhỏ hơn”, rồi im, để tiếng mưa đêm rơi tiếp một hồi trên mái rơm như người gõ nhịp dỗ trẻ ngủ, tới sớm nay, khi mưa rút bớt hơi nhưng chưa chịu đi, bà lại nhắc “mưa tới lớp thì lớp bớt chữ”.

Anh Hai khiêng ra một bó tre đã vót, cây nào cây nấy thân mảnh nhưng gân, nói đóng thêm hai cọc thấp cho đường chân trẻ con khỏi trượt, Tín thử nút tháo khẩn ở sào thứ ba rồi buộc lại, mắt nhìn chéo mặt nước đo chỗ nước thở, cô Ba lau mặt đồng bằng một miếng vải thô hơ ấm, bảo “mưa rơi vào đồng nghe sẽ khác”, ông Sáu vuốt sợi tơ, kéo thử một hơi trầm rồi thả ra cho mùi lá dứa nghe đường, My lôi ống giấy “mồ hôi vảy cá” ra dặn hôm nay chỉ cho sờ, không dán, kẻo mưa cắn mép giấy, ông Trọng rút ống mực tàu, bảo “bữa nay treo chữ thấp hơn nữa”, treo thấp để mắt trẻ khỏi phải kiễng trong mưa.

Con Nụ ôm bảng phấn chạy qua chạy lại như con chim nhỏ ngậm cọng rơm tìm chỗ lót ổ, tấm bảng “Xin ngồi yên” được nó lau khô rồi gạch thêm một đường phía dưới cho chữ khỏi chảy, tờ bút lông “Xin nói nhỏ” buộc bằng sợi dây chuối khô vào cột hiên, ngay dưới bốn chữ “rành – vừa – yên – nghe” dán từ bữa hội, chữ “nhịn” vẫn nằm bên trong như một cái neo, chữ “ơn” vẫn ở sát chân như một viên đá kê sào, nó ngó một chốc rồi cười sún răng với chính mình, thấy chữ mà như thấy người thầy khó tính ngồi yên chờ học trò tới.

Chừng tám giờ, mưa hạ xuống một nhịp mỏng, xe buýt từ thị trấn trườn tới đầu hàng dâm bụt, bầy chân nhỏ bước xuống rón rén như chim chích nhảy qua bờ ruộng, áo mưa trong suốt rung rung theo tay, cô giáo cột tóc sau gáy, cúi đầu chào bà Bảy mà còn ái ngại “trời mưa lỡ rộn”, Thu An cười, dỗ “rộn ngoài, yên trong”, rồi xin từng đứa đưa mu bàn tay ra trước mặt nước, nhắm mắt mười nhịp tim, đếm mưa chạm tay mấy lần, đứa nào mở mắt trước thì nhận phần đặc biệt: ôm bảng đi ngang bờ một vòng, thế mà buổi đầu trong mưa lại êm ngoài dự đoán, những tiếng lách tách trên áo mưa hòa vào tiếng lộp bộp trên mái, hòa vào tiếng thở chậm của bờ, khiến cả xóm nghe như ai đó vừa đặt chiếc chiếu mới trải ngay ngắn lên nền đất, mời mọi người ngồi xuống.

Bài học mùi dưới mưa mở bằng hai nhúm lá dứa cỡ ngón tay cái, một nhúm phơi vừa, một nhúm hơi già, Thu An thả lên hai miệng lò đất con đã lót khô, lửa chỉ bằng lửa của người giữ bấc đèn dầu cho khỏi tắt, mưa rơi dệt những sợi khói thành lụa mỏng bò ngang rồi tan khỏi mép phên, nó bảo bọn nhỏ ngửi mà nín thở một khắc trước khi nói, đứa nói “mùi ngọt gối đầu”, đứa nói “mùi như cơm nguội”, đứa nói “mùi giống áo ngoại”, cô giáo đứng quá gần lò bị cay, bật ho một tiếng, rồi cười, rồi ngồi xa một chút, ông Trọng treo tờ giấy dó dưới tầm mắt trẻ con vẽ bốn chữ “mùi học nước”, nét mực thở ra một hơi mà đậm, bọn nhỏ đọc hơi đớp, vậy mà nhớ, vì mưa đã đặt tiếng xuống thấp.

Qua mùi tới nước, Tín kê một chậu trên sàn tre nghiêng nhẹ, đổ vào một láng mỏng như rót thứ ánh bạc non, phát cho mỗi đứa một con cá lá dừa, dặn “hôm nay kéo theo mưa”, nghĩa là kéo theo tiếng rơi chứ không theo tiếng tim riêng, khi hạt mưa đều thì kéo đều, khi hạt mưa thưa thì giữ vai cho lưng cá nghỉ, bọn nhỏ lóng ngóng mấy nhịp đầu, nước văng ra mép, My lau nhẹ chứ không la, Thu An đứng sau nắm ngón cái đứa run tay, cô Ba gõ một tiếng dài cho ngực cả đám xẹp xuống, ông Sáu kéo dây chậm như mưa rút khỏi lá, hai đợt, ba đợt, cá lá dừa lướt trong chậu nghe như câu chuyện kể bằng những chữ “dạ” “ừ” lót đường.

Rồi tới giờ nghe, ông Sáu để dây yên, cô Ba không gõ, Thu An chỉ tay ra mép phên, bảo tụi nhỏ ngồi xổm một hàng, nhắm mắt, đếm số tiếng mưa khác nhau đang đụng vào bờ: tiếng rơi lên mái rơm, tiếng rơi vào mặt nước, tiếng rơi lên áo mưa, tiếng rơi xuống tấm vải thô căng làm “màn nghỉ”, đứa đếm bốn, đứa đếm năm, đứa đếm ba mà lại tả thêm tiếng mũi mình thở như tiếng mưa bé, cả bờ bật cười mà vẫn nhỏ giọng, mưa nhờ vậy như hạ một bậc, chảy đúng vào chỗ cần chảy.

Giữa buổi ấy, có một người đàn ông đội nón cói cũ, tay xách túi vải, tự giới thiệu là trông coi âm thanh cho một sân khấu ở thị trấn, nghe lớp yên dưới mưa nên ghé học ké, ông xin phép ngồi ở mép phên, kéo chiếc mũ xuống cho mưa khỏi tạt vào mặt, đặt hai bàn tay lên sàn mà không nói, lâu lắm mới ngước lên hỏi Thu An một câu “mưa rơi đều vậy, nếu có một tiếng ầm chen vô thì bờ làm sao”, Thu An chỉ vào chữ “nhịn” dán trong cột, cười, đáp “mình nhịn một nhịp, cho ầm qua, rồi mới nói, còn nếu ầm còn ở lại thì mình rút bớt tay mình cho đủ chỗ”, người đàn ông gật, lấy từ túi một cuộn dây bọc tốt, đặt lên bàn, thì thầm “cho bờ cột chỗ máy quay mai, để ầm không chen bằng dây rời”.

Xế, mưa rút mỏng như tấm voan kéo khỏi mặt, trời hửng một màu trắng nhạt, bầy trẻ ăn chè sen dì Tám bưng tới, bát nóng độ đủ, hơi không cãi nhau với mùi lá dứa, cô giáo xin thêm mười phút cho bọn nhỏ làm “thi đi chén”, dòng thi bữa trước Thu An nghĩ ra để kết lớp, mỗi đứa bồng một chén nước đầy tới miệng, đi qua một đoạn sàn tre kê nghiêng, trong mưa không được đổ, không được chạy, không được nhìn điện thoại, chỉ được nhìn mặt nước trong chén như nhìn vào mắt một người bạn đang kể chuyện buồn, chén đổ là bắt đầu lại, bọn nhỏ cười, cười mà mắt dịu, tới lần thứ ba, chén giữ nhiều hơn, bước chân chậm hơn, miệng bớt nói, tay bớt quẫy, con Nụ ôm bảng chạy vòng vòng làm giám khảo, kết quả là cả lớp được ngồi bậc tre ôm bảng một phút, mưa rơi lác đác trên tóc tụi nhỏ như rắc thêm muối cho cái ngọt rõ.

Ngay lúc ấy, trưởng ấp tất tả chạy tới, áo mưa lấm tấm, báo đầu vàm có chiếc xuồng máy của đám đua xe bữa trước thử đường, sợ tiếng máy rền chen vô, nhờ gánh dời lớp vào trong hiên một lúc, bà Bảy gật như đã chờ sẵn, Thu An ra hiệu không bằng tay mà bằng mắt, cả bờ tự động xê dịch như một đàn cá gặp khúc nước chảy xiết: chậu nước được nhấc vào, lò lá dứa thổi nhẹ một hơi rồi tắt, tấm vải thô “màn nghỉ” kéo xuống thêm một gang, bốn chữ ở cột vẫn nhìn được, tờ “Xin nói nhỏ” như ánh mắt dõi theo người vào, tiếng máy ngoài vàm rền lên một đợt, bờ im, không phải im chịu trận, mà là im để nhường đường, mươi phút sau tiếng máy rút, bờ mở, mưa lắng, lớp yên tự nối mạch như một câu hát bị vấp một chữ mà vẫn về đúng điệu.

Buổi chiều nghiêng như cái nong phơi mè gặp mây, Thu An cho cả lớp nghe một khúc kể mỏng bện vào mưa, không đèn, không khói dày, chỉ dây đờn trầm và chập chõa mở lối, con cá gỗ lướt vào ánh trời rớt qua mái như một sợi tơ buông, lưng cá nhận lấy đợt mưa thưa như người nhận tay bạn cũ, mùi lá dứa chấm một dấu rồi rút, người ngồi bờ cúi đầu theo nhịp, đứa nhỏ nhất ôm chặt chén đã hết nước mà vẫn canh canh sợ tràn, tiếng chập chõa khóa chốt đúng lúc mưa ngồi xuống, mọi người thở ra cùng nhau như chén đặt xuống mâm mà không kêu.

Sau lớp, mấy vị phụ huynh ghé chào, có cô dạy tiếng Anh ở thị trấn nói muốn mượn bốn chữ treo ở cột về làm dải chữ cho lớp, cô bảo sẽ dạy học trò đọc chậm hơn, viết ít hơn, nói nhỏ hơn, nghe kỹ hơn, Thu An gật, chỉ xin cô treo thấp, cô cười, “để mắt tụi nhỏ khỏi phải kiễng”, Phúc đứng cạnh nhấc máy chụp một tấm ảnh rất ít người, nhiều khoảng trống, góc có tấm bảng “Xin uống nước chậm” ở rìa râm đã ướt loang chân giấy mà vẫn đứng, anh nói bài báo “Chậm” gần xong, xin một câu ngắn để khóa, bà Bảy đáp “chậm để nước nghe kịp”.

Lúc mây sẫm hơn, bưu tá huyện lại đạp xe ghé, ống quần ướt tới gối, đưa một phong thư có con dấu đỏ của Sở, thư viết giọng mộc trong cái lễ, khen lớp yên dưới mưa như một thử nghiệm cần có trước đề án, xin lịch ghi hình một buổi “không lời bình”, chỉ giữ tiếng, giữ mùi, giữ mưa nếu có, kèm theo là một tờ giấy nhỏ của chị cán bộ trẻ: “Em treo chữ ‘chậm’ cạnh bàn làm việc rồi, được người phòng kế bên hỏi mượn”, bà Bảy cười, nói “chữ treo đâu cũng được miễn người treo chịu ngồi yên ba phút”, ông Trọng thêm vào lề sổ “chậm có chân”.

Mưa tan, trời rót xuống bờ một màu mật mỏng, hàng dâm bụt lóng lánh như vừa ai bấm vào cho bật tiếng cười, Thu An thắp đèn dầu cho ánh hắt qua tấm vải thô “màn nghỉ”, thấy trong hơi sáng ấy thấp thoáng gò má mẹ, thấy tay anh Hai đặt lên sào như đặt lên vai người thân, thấy mũi mái chèo Tín coi lại vết nứt nhỏ rồi cười “không sao”, thấy My cuộn giấy dầu đúng chiều, thấy ông Sáu phủ khăn, thấy cô Ba luồn sợi dây rút vào vòng tròn như buộc một mối cũ, thấy Phúc cất máy mà mắt còn ươn, thấy Khoa đứng nghiêng dưới mái, tay không chạm vào nắp hộp, môi mấp máy chữ “đủ”.

Đêm kề, nước ròng như người đi xa chợt nhớ đường về, con Nụ ôm bảng ngủ gục trên vạt chiếu, tay vẫn giữ khư khư mép gỗ như giữ bí quyết của cả buổi mưa, Thu An ngồi bậc tre, mở sổ, chép “Mưa dạy nói nhỏ – Mưa dạy nhịn kẻ chen – Mưa dạy bớt chữ – Mưa dạy chén đi qua nghiêng – Mưa dạy chờ tiếng máy rút – Mưa dạy mùi lùi đúng chỗ – Mưa dạy thở cùng cơn – Mưa dạy ơn người đứng im”, chữ nối chữ như hạt mưa nối hạt mưa trên mép mái, không rơi thành dòng nhưng thấm, để mai giở lại sẽ có mùi.

Khuya hơn chút nữa, gió đồng phả một hơi mặn nhè nhẹ vào mái rơm, tiếng côn trùng ở ruộng lên đều như khung cửi, bà Bảy bưng khăn có đường chỉ xanh ra, đặt lên bàn thờ Tổ, thắp một nén nhang nhỏ, khấn vắn tắt “cám ơn”, không thêm, không bớt, rồi quay sang con, nói “bữa kia sang ao đình trả lớp yên, con nhớ dặn tụi nhỏ bên đó học tháo khẩn trong mưa chứ không phải đợi khô mới học, nhớ dặn thắp nhang thấp hơi, nhớ dặn để gió vào gian giữa”, Thu An dạ, mắt thong thả như nước rút, tay vô thức vẽ trong không khí một sợi chỉ nối từ chữ “chậm” trên bàn làm việc cô cán bộ về tấm bảng “Xin nói nhỏ” treo dưới mái, từ tấm bảng ấy về chén nước con nít ôm mà không đổ, từ chén nước ấy về lưng cá gỗ hôm nay không kéo vẫn học, từ lưng cá ấy về nút tháo khẩn ở sào thứ ba, từ nút ấy về mũi ghe Năm Tỵ đang ngủ dưới chân sào như con cá hiền, từ mũi ghe về đường chỉ xanh trên khăn, sợi chỉ đi qua mưa, qua tiếng máy, qua tiếng “ừ” của người lạ, qua tiếng thở của người quen, nằm đó như đường gân mảnh dưới da.

Sáng hôm sau của đêm mưa hiền, trời nhạt như lòng chén mới rửa, mùi bùn ròng thanh như nước lá dứa pha đúng tay, bọn nhỏ thị trấn gửi một xấp giấy vẽ bằng bút chì, mỗi tờ vẽ một chén nước đầy, dưới đáy ghi một chữ “đủ”, cô giáo viết kèm mấy hàng chữ: “tụi nhỏ về nhà mở vòi rất nhỏ cho nghe tiếng rơi, không ai dám la, tụi nhỏ dạy lại ông bà nội ‘xin nói nhỏ’, tối cả nhà ăn cơm không mở tivi”, bà Bảy đọc, gật, nói như tự nhủ “mưa đã học lời”, Thu An rót hai chén nước, đẩy một chén về phía mẹ, cầm một chén ra hiên, nhìn xuống mặt sông đầu ngày chưa nhăn, trong đầu đã loé hiện khúc “kể không vé” mà thị trấn vừa đề nghị thử, một đêm không hàng rào, không ghế phân khu, không người soát, chỉ có bờ, có bảng, có mùi, có tiếng, có đèn dầu hạ xuống, có mấy bàn tay sờ vào nhau để biết chỗ ngồi, nó nghĩ tới chữ “chia” mẹ dặn, thấy chữ ấy sáng lên như con đom đóm đi muộn.

Chiều ấy, mây dạt, nắng trở lại, con nước đứng đúng một lát, trưởng ấp ghé nói ngắn “đêm ‘không vé’ để tui đứng góc bến coi vạch phấn cho khỏi lộn”, anh thợ dây ngày nào nghe tin bèn mang thêm mấy cây đèn dầu cũ đã sửa bấc, xin đặt sau tấm vải thô cho ánh hà hơi, nhóm nước ở góc râm xin để bảng “uống chậm” thêm một tuần, Khoa gửi đường phim dài hơn mười giây chỉ có mưa và mặt nước, Phúc bảo bài “Chậm” lên trang sáng mai, chị cán bộ trẻ nhắn tin hình chữ “chậm” treo cạnh chậu lan đá, thủ từ ao đình nhắn “mai nước đứng, mời bờ qua cho tụi nhỏ tháo khẩn trong mưa”, bà Bảy cười nhỏ, nói “câu chuyện như mưa đủ nhịp thì biết đường đi”, Thu An đứng ở bậc tre, ngó qua sông, thấy sợi chỉ vô hình nối bờ nhà với ao đình kéo thêm một mối, mối này không phải mối nylon bóng loáng, cũng không phải mối chỉ tàng hình, mà là mối mưa, mối buộc bằng hơi thở, bằng tiếng chén đi qua nghiêng, bằng chữ treo thấp để người bận nhìn tới, bằng cái chậm treo lên bàn làm việc nơi xa, bằng cái ừ rơi đúng lúc, bằng cái nhịn không gượng, bằng cái ơn gọi đúng tên.

Đêm đổ xuống êm như ai rót mật ong vào lòng chén sành, con Nụ ngủ ôm bảng, đôi môi mấp máy chữ “xin”, mái rơm thở như tiếng nước ròng, Thu An kéo bấc đèn hạ xuống một chấm, ngồi lâu hơn mọi bữa, tay tiếp tục vẽ sợi chỉ đi khỏi hiên nhà, băng qua dải bần, đến ao liễu, quành về rìa thị trấn, lượn qua góc râm có tấm bảng “uống chậm”, trườn qua trang báo có chữ “Chậm”, đậu trên vai người đàn ông đội nón cói học ké, xuống bàn tay cô giáo dạy lớp đọc chậm, chạm vào đầu bút ông Trọng, lướt qua miệng lò lá dứa, dừng một khắc trên lưng cá gỗ, rồi quay về đặt lên đường chỉ xanh trên khăn mẹ thêu, sợi chỉ cột vào mọi thứ mà không siết, cột xong thì buông, để mai, dù mưa hay tạnh, dù người đông hay thưa, dù có tiếng máy nào rền lên, gánh vẫn biết cách thở trước khi nói, bớt trước khi thêm, nhịn trước khi ham, ơn trước khi nhận, rành trước khi khoe, vừa trước khi đẩy, yên trước khi kể, nghe trước khi ghi, để một hôm nào đó, giữa mưa, cá bỗng hóa, người đứng bờ vẫn còn thấy mặt nước trong mắt nó.

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout