Sáng nước đứng đúng lịch thủ từ gửi, bờ sông Hậu mở mắt bằng một làn sương mỏng như người ta kéo nhẹ chiếc khăn voan lên khỏi gối, hơi ẩm bám vào đường chỉ xanh trên khăn mẹ đặt trên bàn thờ Tổ khiến sợi chỉ nổi lấp lánh như lưng cá quẫy trong chậu nước của Lớp yên, gian chòi rối thơm mùi lá dứa hãm từ khuya, mùi ấy trộn với mùi bùn ròng hiền như cháo gạo rang, Thu An gấp lại mẩu giấy ghi chú “Ao đình – Lớp yên dã ngoại”, rót hai chén nước ấm, một chén đẩy về phía mẹ như một cái cúi đầu nhỏ trước khi đi xa nửa khúc sông, chén kia đặt sát mép khăn cho hơi ấm thấm xuống từng sợi chỉ như dặn lòng buộc lại mối yên đã quen trong nhà để mang sang bờ liễu.
Đoàn đi gọn như người về thăm bà con, không trương, không loa, không giương bạt, chỉ gói kỹ đèn dầu, cột chặt mấy bó tre, xếp phên mỏng, thắt vào mạn ghe mấy ống giấy hoa văn My đã ghi chú “để sờ”, ôm theo ấm nước lá dứa cột khăn, bỏ vào rổ mấy sợi dây chuối khô, xếp ở đáy ghe những chiếc áo phao nhỏ, con Nụ ôm bảng “Xin ngồi yên” như ôm gối, mắt sáng vì chuyến đi, Tín chống mái thử nước, anh Hai kiểm lại nút tháo khẩn ở sào dự phòng, ông Sáu phủ tấm khăn mỏng lên đờn, cô Ba bọc chập chõa bằng một mảnh vải thô, Khoa đặt hộp máy vào góc khô nhưng hứa chỉ bật khi gió thuận, Phúc đeo máy ảnh nhưng bảo miệng sẽ kể trước, ông Trọng nhét ống mực tàu vào túi vải, bật nắp ra ngửi mùi như người nếm thử một câu cần viết.
Ghe Năm Tỵ trườn qua khúc sông quen, bờ nhà lùi lại nhường những đọt bần lạ dần, hơi nước ở phía ao đình có vị trầm mới, không gắt, không lấn, tựa như người hàng xóm lâu năm mở cửa ngõ bước ra mỉm cười, liễu rủ soi xuống mặt nước vẽ những đường cong dài như nét bút chưa nhấc, mái đình gỗ rêu khuất sau hàng sen non, thủ từ đứng nơi bậc đá, tay cầm cây gõ nhỏ, cúi đầu chào, mắt sáng như người gặp lại một chữ “ừ” cũ, ông mời vào gian trái thắp nhang trước Tổ, khói nhang cay nhẹ, mùi trầm ôm lấy mùi lá dứa đi theo ghe như hai người bạn gặp nhau đúng chỗ, bà Bảy đặt tay lên mép bàn thờ, khấn không dài, chỉ như đặt một viên đá nhỏ xuống chỗ nước lở, rồi quay ra, bảo “mở lớp”.
Bầy trẻ con làng bên chụm lại dưới liễu như một đàn chim non xuống bãi cạn, mắt tròn, chân đất, áo phông có chữ đậm nhạt, vài đứa ôm một mảnh lá dừa đã tước sẵn, vài đứa ôm chiếc quạt giấy nhăn nheo, cô giáo làng đứng sau, bẽn lẽn như người mới học ngồi yên, Thu An giơ tay, xin từng đứa đặt mu bàn tay cách mặt ao một gang, nhắm mắt, đếm mười nhịp tim, không nói, không cười, không chỉ chỏ, nghe hơi nước tì lên lông tay mỏng, nghe tiếng mạch bùn khẽ cựa như đứa trẻ ngủ mơ trở mình, ai mở mắt trước thì ôm bảng “Xin ngồi yên” đi một vòng, con Nụ đứng cạnh như cái cột nhỏ, răng sún lấp lánh dưới nắng loang qua cành liễu, mười nhịp trôi êm, bờ đình rì rầm tiếng côn trùng xứ ao, vị trầm trong gió rót chậm vào mũi như một chén chè nóng để ngỏ, bọn nhỏ sau mười nhịp mở mắt, không ai muốn nói to, đứa này nhìn đứa kia cười bằng mắt, cái lớp học buổi đầu tự gói mình vào một cái yên không ai dặn bằng chữ.
Bài thứ nhất ở ao khác bài ở sông, Thu An bốc một nhúm lá dứa phơi vừa, vò nhẹ, đặt lên miệng lò đất con thủ từ cho mượn, lửa nhỏ, khói xanh bò ngang trước khi tan, mùi lá chạm mùi trầm rồi lùi, nó bảo bọn nhỏ ngửi lỗi, tìm chỗ mùi dừng, đứa viết “bên gốc liễu”, đứa viết “trước bậc đá”, đứa ngước nhìn mái đình rồi ghi “trên không khí”, cả ba đều đúng nếu biết giải thích bằng tay, bằng mũi, bằng mắt, nó đưa tay chỉ chỗ gió hắt ngang, chỉ mảng mái thò ra tạo bóng im, chỉ sợi dây néo cột vào rễ liễu đang thở, bảo mùi đi có đường, không phải cứ bấm nút là chạy, bọn nhỏ gật, gật như hạt sen rời cọng giữa trưa, có đứa hít một hơi sâu rồi mỉm cười vì lần đầu hiểu mùi có chân.
Bài thứ hai là nước, chậu của Lớp yên đặt tạm trên bậc đá lót vải, ánh chiều chưa đến, mặt ao phẳng như tờ lụa, Tín đổ một láng mỏng, trao cho mỗi đứa một con cá lá dừa đan ngay tại bờ, dặn kéo theo hơi chứ đừng theo sức, khi thấy mặt nước hơi căng thì nhẫn, khi thấy mặt nước mềm thì đi, đứa vụng tay văng nước ra mép đá, cô giáo giật mình, Thu An mỉm cười, lấy mu bàn tay chặn nhẹ để giọt nước tạm ở lại, nói “nước ao không thích hoảng”, đứa bé dợm lại, con cá mảnh như chiếc lá lướt đi không để lại vệt, thủ từ đứng bên, cười ru rú, tay vỗ về cây gõ như vỗ con mèo nhỏ sợ người lạ.
Bài thứ ba là tiếng, ông Sáu kéo hai dây rất khẽ để tiếng đờn như tiếng hơi thở của rễ liễu, cô Ba gõ chập chõa một tiếng xa nằm cạnh một tiếng gần, Thu An bảo bọn nhỏ chạy ra mép ao, cúi đầu, mở tai, đếm xem tiếng đờn đến chậm hơn tiếng chập chõa bao nhiêu nhịp, đứa viết 2-1, đứa 3-1, đứa xòe tay đếm rồi cười vì tay mình run, thủ từ góp một câu nhỏ như mũi kim khâu mép vải “tiếng mõ ở gian giữa đi chậm hơn tiếng đờn một nấc”, ông Sáu gật, kéo dây trầm xuống nửa cung, tự nhiên mặt ao trầm hơn một chút, liễu rủ như cúi nghe, bọn nhỏ tròn mắt, học được rằng tiếng có đường, tiếng phải vòng qua mái đình mới tới tai, tiếng không nhảy rào.
Giữa buổi, một cơn gió nhỏ đổ qua mặt ao như người lạ đi ngang hiên cúi chào, lá liễu lật mặt bạc, mấy bè sen non xao bằng những vòng tròn nhỏ rồi nằm xuống, Thu An hạ ánh thử nửa nấc dù chưa kể, chỉ để bọn nhỏ nhìn thấy ánh phải nhường nước khi gió đổi, cô Ba bẻ nhịp dài, ông Sáu để dây tự thở, con Nụ ôm bảng đứng chắn chéo hướng gió như người giữ cửa, mùi trầm dưới mái đình rót thêm một khấc, mùi lá dứa lùi như người nhường ghế, bọn trẻ im re như đọc thầm chữ “nhịn”, cô giáo nhìn Thu An, nhận ra trong cách hạ tay có một thứ thong thả cổ xưa, thứ thong thả mà người thành phố bây giờ hay gọi bằng chữ khó, ở đây gọi bằng hơi.
Đến đoạn “chào Tổ”, thủ từ mời cả bày trẻ vào gian giữa, thắp một nén nhang nhỏ, dạy cách cúi đầu không quá, cách buông tiếng “bẩm” không kéo dài, cách đặt bàn tay trên bàn thờ như đặt lên vạt áo của ngoại, Thu An đứng sau nhìn vào bức ảnh đen trắng ông nhà treo nơi giêng hậu, lòng lướt qua một luồng mát, như sợi chỉ từ ảnh chạy qua tay cô rồi thắt vào mối mới trên phên bên nhà, con Nụ ôm bảng ngước nhìn chữ “Tổ” mạ vàng, nheo mắt như học thuộc mặt một người thân gặp không nhiều, thủ từ cười bằng mắt, bảo “Tổ thích yên”, câu ấy giống một lệnh nhỏ mà hiền.
Xế trưa, trời bật mây mỏng, bờ liễu thả một bóng đậm lên mặt ao như đặt một tấm vải thô cho lưng người nghỉ, dì ở bếp đình bưng ra nồi chè sen hầm hạt vừa đến độ, mùi mát trao tay nhau như hòn đá tròn chuyền qua một dãy người, bọn trẻ ăn im vì còn học dở, vài cái thìa lách cách chạm vành bát nghe như tiếng chuông con trong chùa xa, Thu An tranh thủ mở túi, lấy ra mấy mảnh giấy dầu My cắt, đưa từng đứa sờ, dặn chạm xong bỏ xuống, đừng giữ, vì giữ lâu thành phô, đứa nào tiếc thì nhắm mắt chụp vào trí nhớ, mai mở ra coi còn nét không, cô giáo xoa lưng một bé gái ngồi sát liễu, miệng thủ thỉ “yên giúp nhớ lâu”, câu nói nghe giản mà đúng.
Lúc đó, có một nhóm người từ thị trấn theo tin mà tìm tới, ăn vận gọn ghẽ, tay cầm máy ảnh ngắn dài, miệng “ồ” lên nho nhỏ khi thấy liễu rủ, thấy ao sạch, thấy mấy đứa nhỏ ngồi trật tự, một anh trong nhóm nhoài tới hỏi “có thể xin quay drone mấy giây cho có cảnh tổng thể”, thủ từ liếc nhìn Thu An, Thu An nhìn con Nụ, con bé ôm bảng bước một bước, chỉ tay vào dòng “Xin ngồi yên”, anh kia khựng, giơ tay cáo lỗi, gập máy, đứng yên đúng ba phút, nghe hết một nhịp đờn, rồi mới mở máy cầm tay, lia rất chậm, như phí phạm thời giờ của chính mình mà lại đúng chỗ, bờ đình nhờ vậy giữ được cái thở, không bị tiếng cánh máy che lên tiếng côn trùng.
Buổi chiều trôi vào khúc thực hành tháo khẩn, sào dự phòng đặt chéo dưới rễ liễu, nút trượt dạy từng đứa, tay giữ, mắt nhìn, tai nghe, Thu An chỉ bờ đá trơn cảnh báo đường thoát, Tín đứng mũi chậu làm “nước sống”, lay một nấc cho bọn nhỏ biết cảm giác mặt ao đổi, anh Hai nắm lưng cá gỗ để bọn nhỏ thử tiếp đường khi nước bỗng nâng, ông Sáu kéo dây trầm chống cho tai đỡ hốt, cô Ba thả nhịp dài để ngực xuống, thủ từ ngồi trên bậc đá như cái neo nhìn, miệng không nói mà mắt dạy, bọn trẻ rối rít mà không náo, tháo đúng chỗ, gỡ bằng ngón cái, buông nhẹ như bỏ vào nước một miếng trầu.
Ngay trước khi rút phên, một cụ bà lưng còng chống gậy tới sát bờ, tay dắt đứa cháu trai gầy gò tay ôm con cá lá dừa tự đan, cụ nhìn Thu An, nói bằng giọng miệt vườn “cho cháu thả một hơi coi”, Thu An bưng chậu ra giữa bóng liễu, đặt con cá vào tay đứa bé, dặn thở trước, nhìn sau, nhấn vai ở nấc ba, đứa nhỏ làm vụng nhưng không hoảng, nước bật lên vài hạt rồi nằm xuống, con cá lướt qua mép chậu, ánh chiều chạm lên vảy lá, người bờ im như ngậm hột sen, xong hơi, đứa nhỏ cúi đầu, ôm cá vào ngực, cụ bà gật rất nhẹ, như gật với một người quen cũ.
Hoàng hôn rót xuống mặt ao một lớp mật mỏng, trăng non như vỏ hến mài ló khỏi mái đình, tiếng côn trùng lên đều, Lớp yên bên liễu khép buổi bằng bài “gọi tên ơn”, bà Bảy đọc tên những người đã góp vào hơi yên hôm nay, tên thủ từ giữ trầm, tên dì bếp múc chè, tên cô giáo dắt lớp, tên nhóm thị trấn cất drone, tên cụ bà dắt cháu, tên anh Tín làm nước sống, tên anh Hai giữ lưng cá, tên ông Sáu níu dây, tên cô Ba bẻ nhịp, tên My cắt giấy cho sờ, tên ông Trọng treo chữ thấp, tên Năm Tỵ chống mái, tên con Nụ ôm bảng, tên người lạ đứng im đúng ba phút, mỗi cái tên như một hạt cốm dẻo đặt đúng chỗ lưỡi, bọn nhỏ dạ thành hàng, tiếng “dạ” rỏ xuống mặt ao như hạt mưa hiền.
Khi người làng tản dần, khi liễu rủ đổ bóng rộng hơn, khi mặt ao lấp loáng vảy bạc non, thủ từ mời gánh vào gian hậu uống một chén nước ấm, bàn gỗ khô, mùi trầm lặng, bức ảnh đen trắng ông nhà đặt ở chỗ cũ, ánh mắt trong ảnh nhìn ra ngoài như vẫn còn nghe tiếng chập chõa đâu đó, Thu An đặt ngón tay lên mép khung, lòng cảm như có một sợi chỉ nữa buộc vào cổ tay, sợi chỉ kéo về phía bờ nhà, buộc vào mối “chia” mới thắt từ hôm Lớp yên, buộc vào mối “chậm” chị cán bộ Sở viết riêng cho mình, buộc vào mối “đủ” Khoa gọi tên trong phim, buộc vào mối “yên có hình” Phúc in khung, buộc vào mối “uống chậm” góc râm, những mối ấy lồng vào nhau như lưới giăng một đêm nước lớn.
Lên ghe về thì nước đã ròng một đốt ngón tay, gió xuôi, đường sông như trải sẵn, con Nụ ôm bảng gục đầu vào vai My, miệng mấp máy chữ “xin”, Tín chống mái đều như nhịp tim người khoẻ, anh Hai kiểm nút lần cuối, ông Sáu dựa lưng kềm một câu đờn chưa kéo như giữ giùm cái yên ngoài liễu, cô Ba cất chập chõa trong vải mà tay còn vuốt mép, Khoa mở máy lặng lẽ ghi đúng mười giây mặt trăng rơi xuống mép nước rồi cất, Phúc không bấm, chỉ nhìn, ông Trọng ngồi bệt, viết vội trên đầu gối mấy chữ “yên giúp nhớ lâu”, bà Bảy ôm chiếc khăn đường chỉ xanh, tay vuốt mép như người xếp câu chuyện vào rương.
Về đến bờ nhà, sương muộn đã chớm, mùi bùn ròng dưới phên đứng lên đón như con nhỏ chạy từ hiên ra ôm người đi xa vừa về, Thu An đặt ấm nước lên bếp, nhón muối thả xuống như thói quen đã bén, rót hai chén, đẩy một chén về phía mẹ, rồi ngồi bậc tre mở sổ, viết “Lớp yên bên liễu” vào đầu trang, chép rằng mùi trầm hợp mùi lá dứa ở nấc thấp, chép rằng bóng liễu đỡ cho ánh đúng buổi chạng vạng, chép rằng tiếng mõ già đi qua tiếng chập chõa như người lớn nhường đường cho con nít mà vẫn giữ nhịp, chép rằng drone tắt kịp lúc, chép rằng con nít học tháo khẩn không cần la, chép rằng cụ già gật như thả một hòn sỏi xuống giếng thời gian, chép rằng chữ “nhịn” treo thấp giúp tay hạ, chép rằng chữ “ơn” đặt sát chân cột giúp miệng gọi tên đúng.
Đêm xuống êm như một cái mền mỏng đắp qua vai người làm việc ngay ngắn, bờ sông Hậu rót tiếng rì rầm nhỏ như một câu ru lẫn trong hơi thở, con đom đóm ở ruộng gom lửa muộn, mái rơm thở đều, trong chòi, con Nụ ngủ ôm bảng, bàn tay bé xíu giữ chặt mép gỗ như giữ bí quyết của cả một đám đông, Thu An thổi bấc đèn còn một chấm, ngồi rất lâu, tay vẽ trong không khí một sợi chỉ mới, sợi chỉ nối từ rễ liễu bên ao đình về cọc tre ở mép phên, từ cọc tre về nút tháo khẩn trên sào thứ ba, từ nút tháo khẩn về lưng cá gỗ đang hong khô, từ lưng cá về mùi lá dứa phơi vừa, từ mùi lá dứa về tờ giấy “Xin ngồi yên” có dấu tay phấn của con Nụ, từ tờ giấy ấy về ống mực tàu đang ngủ, từ ống mực tàu về ống kính đã tắt, từ ống kính đã tắt về tấm ảnh “yên có hình”, sợi chỉ ấy đi qua tên từng người đã được gọi trong buổi chiều, qua tiếng “dạ” lẫn tiếng “ừ”, qua một chén chè sen còn mát, qua một cái cúi đầu trước Tổ, qua một nhịp gió nhỏ khiến ánh hạ xuống, rồi nằm đó như một đường gân mảnh dưới da, không phô ra, không trốn đi, chỉ chờ sáng, để khi mặt trời chạm đọt bần, khi phòng văn hoá nhắn “bữa sau mở lớp trong mưa”, khi ai đó ở thị trấn hỏi “bao giờ có phiên kể không vé”, khi nhóm nước ở góc râm xin giữ bảng “uống chậm” thêm tháng nữa, khi Khoa gửi đường phim dài hơn mười giây, khi Phúc in bài thứ hai “Chậm”, khi chị cán bộ Sở nhắn ảnh chữ “chậm” treo cạnh bàn làm việc, khi thủ từ ao đình gởi lời “bữa kia dọn ao”, gánh sẽ biết cách trả lời bằng đúng thứ đã học dưới bóng liễu: thở trước khi nói, bớt trước khi thêm, nhịn trước khi ham, ơn trước khi nhận, rành trước khi khoe, vừa trước khi đẩy, yên trước khi kể, nghe trước khi ghi, để đến đêm nào đó con cá hóa, người đứng bờ vẫn còn thấy mặt nước trong mắt nó.
Bình luận
Chưa có bình luận