Chương 16: Ghé thăm trước cơn mưa



Sáng hôm Sở hẹn xuống, con sông Hậu phủ lên bờ một lớp sương mảnh như người già trải chiếc khăn voan mòn sợi lên mái tóc đã bạc mà còn thơm mùi bồ kết, hơi nước trườn qua hàng dâm bụt, bám thành giọt trên đường chỉ xanh của chiếc khăn mẹ đặt ngay ngắn trên bàn thờ Tổ, mùi lá dứa hãm từ canh khuya vẫn còn ấm, quyện cùng mùi bùn ròng đã lắng từ đêm khiến gian chòi rối như một gian bếp mở nắp nồi đúng lúc, không phô trương mà ai đi ngang cũng quay đầu, Thu An dậy sớm hơn thường, đưa ngón tay rà lên mép phên nơi vết dầu bóng đã ăn da, nghe tiếng “yên” run rất khẽ như con cá lội dưới lớp lục bình, bèn rót hai chén nước, một chén đẩy về phía mẹ theo nếp, chén kia đặt sát mép khăn cho hơi ấm đi vào từng sợi chỉ, coi như buộc lại mối “yên” trước khi mở cửa đón cái ồn có phép của khách.

Từ sớm tinh mơ, tờ giấy bút lông “Xin ngồi yên ba phút” đã được con Nụ treo thấp nơi người bận cũng nhìn tới, bên dưới là bảng “Xin nói nhỏ” nó lau lại nét phấn cho tươi, đứng nhìn một chút rồi cười sún răng với chính cái chữ của mình, anh Hai đổi một cây cọc già bằng cây tre vót tối qua, Tín thử lại mấy nút tháo khẩn, buộc xong lại gỡ, gỡ xong lại buộc, tay thoăn thoắt như hai con cá lia thia tập bơi đối mặt, ông Sáu lướt khăn ấm lên dây đờn cho tơ mềm, cô Ba gõ thử lên mặt đồng đúng một nhịp dài, nghe tiếng lan ra như mùi chè sen hâm nhẹ, My lôi từ ống giấy một mảng “mồ hôi vảy cá” đã đánh dấu “mùa nước lớn” nhưng bữa nay chỉ cho khách chạm tay, không dán, còn ông Trọng ngồi dưới bóng dừa nước, mở ống mực tàu, bảo bữa nay ông viết ít chữ thôi mà treo thấp, để người đến ngước ít, cúi nhiều.

Đúng hẹn, chiếc xe biển xanh dừng ngoài hàng dâm bụt, bốn người bước xuống, giày đánh bóng, móc đeo thẻ, tay ôm tập hồ sơ dày cộp, vị trưởng đoàn cười lịch, chào bà Bảy như chào một người lớn tuổi ở nhà, nói câu đầu tiên đã xin phép “ngồi yên”, chị cán bộ trẻ theo sau ôm máy ghi âm đen láng nhưng nhét hẳn vào túi, bảo “để khi nào hết ba phút em mới mở”, câu nói rơi trúng chỗ ưa của bờ, thành ra mấy con chim sẻ trên mái phên cũng bớt giật mình, Thu An mời vào chòi, không giải thích, không thuyết trình, chỉ ra tay xin mọi người đặt mu bàn tay cách mặt nước một gang, nhắm mắt, đếm bằng tim, hít mùi bùn ròng đã hiền, nghe dây néo thở dưới gió, nghe tiếng nước rút lẫn tiếng sương tan, đúng ba phút, chị cán bộ mở mắt trước, mỉm cười như vừa nuốt một ngụm nước mát, thì thào “nghe được hơi”, rồi mới rút máy, đặt nhẹ xuống, như đặt một con cá mới gỡ khỏi lưới mà sợ nó đau.

Phần hỏi bắt đầu trong một thứ giọng không còn văn bản, anh phụ trách an toàn cầm form “mùi - ánh - âm” mở ra, lướt qua các ô “nồng độ”, “nguồn phát”, “tác nhân ảnh hưởng”, ngập ngừng ở chỗ trống Thu An đã viết tay “mùi thả bằng tay đã qua nước, không đo bằng số, đo bằng hơi”, rồi ngẩng lên, hỏi một câu nghe giản dị mà thiệt trí: “Nếu người khác cầm tay thay cô thì mùi có còn đúng không”, Thu An đặt chén nước xuống, nói chậm như xếp ván vào kho “đúng nếu tay kia biết nghe nước trước, biết nhịn trước, biết bớt trước, biết ơn trước; bọn nhỏ bữa kia tập thả mùi đều có mùi riêng, nhưng khi ngồi cạnh nhau, mùi biết nhường mùi”, anh gật, gạch thêm vào lề chữ “nghe nước trước - training”, cười, bảo “đề án gọi vậy không ai phản đối”.

Tới phần “ánh”, chị cán bộ trẻ hỏi “sao không dùng gobo hay profile để vẽ cá lên nước cho sắc, đỡ lệ thuộc mặt sông”, Thu An nâng tay chỉ ra mép phên, nơi mảng trời nhỏ đang trôi trên nước như một tấm phim sống, đáp rằng “vẽ sắc quá thì người ta nhớ đèn mà quên nước, mà đã gọi rối nước thì nên để nước là họa sĩ, còn mình chỉ là người giữ khung, người nhắc nhịp”, câu trả lời làm cô ngưng bút vài giây, bèn ghi “nước là họa sĩ”, cười, thở nhẹ, như đặt xong một cục đá trên bậc thềm, rồi hỏi thêm “vậy lúc gió trái bất chợt”, bà Bảy tiếp lời con, kể chuyện đêm nước trôi mấy bữa trước, cách hạ đèn nhường gió, cách ông Sáu níu dây xuống cung trầm, cách Tín cắm mái như đo mạch, cách chữ “nhịn” dán trong cột đã giúp tay không ham, miệng không vội, lòng không nóng, nghe kể xong, cả đoàn im ít giây, giống như người ta nếm một món lạ mà té ra là món hồi nhỏ bà ngoại từng nấu, mùi quen ở cuối lưỡi.

Phần “âm” đến lượt ông Sáu và cô Ba, không nhạc lý, không thuật ngữ, chỉ những động tác rất già: ông kéo một dây như một hơi thở dài của bờ lúa, rồi hai dây như nhịp cầu gỗ bắc qua rạch nhỏ, cô Ba gõ chập chõa một tiếng xa nằm cạnh một tiếng gần, bảo “người đông thì tiếng gần thấp, tiếng xa cao, người thưa thì đổi lại”, anh phụ trách ghi “crowd-adaptive tempo”, rồi nhìn qua tấm bảng “Xin nói nhỏ”, chụp một tấm ảnh đưa vào hồ sơ, nhưng tắt âm máy như người xin lỗi, Phúc đứng xa nháy mắt với Thu An, ý nhắc “đèn đi sau tiếng”, Khoa tựa vào cột “ơn”, ôm hộp máy mà không bật, mắt ghi chứ không ống kính, My mở ống giấy, cho chị cán bộ sờ mặt giấy dầu, bảo “mồ hôi vảy cá” phải tắt ngay sau khi chạm, không thì thành phô diễn.

Giữa lúc không khí ở mức “vừa”, trời bỗng kéo một mảng mây dày từ phía rừng tràm, gió hạ một nấc rất nhỏ khiến tấm phên rít một đường mảnh như kim khâu lướt qua mặt da, bờ dâm bụt nghiêng đầu, con nước dựng những gai li ti, Thu An nhìn mẹ, không đợi ai nhắc, hạ ánh nửa bậc, ra dấu cho cô Ba bẻ nhịp dài, anh Hai bấu sào, Tín đặt mái, ông Sáu rút dây, con Nụ ôm bảng đứng nghiêm như lính gác, người của Sở tự động cúi đầu xuống một chút như né gió, cơn thử đến trong đúng một hơi thở rồi qua, để lại trên mặt sông một màu bạc non mỏng như da bánh tráng vừa phơi, chị cán bộ thở ra, thì thầm “ghi: cho mưa vào hồ sơ”, cả đoàn cười, tiếng cười nhỏ như tiếng rơi của một hạt mắm già.

Sau đợt gió, cuộc trò chuyện đổi giọng như sau một cơn ho, ấm hơn mà dè chừng, vị trưởng đoàn mở chi tiết “kinh tế - lịch kể”, hỏi bờ đã nghĩ đến cách “sống bằng nghề” mà không dời nhịp không, bà Bảy cười hiền, nói “bờ sống đã lâu bằng bờ: buổi nào đông thì dặn uống nước chậm, buổi nào thưa thì kể dài hơn, ai mời bờ lên chỗ kín thì bờ gửi lời xuống bờ, ai muốn logo lên phên thì bờ xin chữ ‘đủ’, gạo nhà còn, cá mùa lên, chè sen người ta biếu, áo phao trả rồi lại mượn, thứ cần nhất là người chịu ngồi yên”, ông gật, bút gạch “giá trị đổi bằng yên”, bảo “tôi sẽ viết trong đề án một câu này”.

Khi mưa thử đã tan hẳn vào nắng như đường phèn tan trong nồi chè, Thu An xin phép diễn một khúc ngắn “khai bờ”, không đèn to, không mùi dày, chỉ đủ để người mới tới thấy mặt nước có giọng, ông Sáu kéo dây trầm, cô Ba mở chốt không tiếng, con cá lướt một vòng mỏng như sợi tóc, ánh giữ thấp, mùi lá dứa chấm một dấu rồi rút, người của Sở đứng sau vạch phấn, mắt dịu lại như vải vừa ngâm nước, khúc ngắn hết không ai vỗ tay, vị trưởng đoàn khép hồ sơ, cúi đầu chào như chào một người lớn tuổi ở quê, rồi xin “được cái lịch qua ao đình coi bờ dạy tụi nhỏ làng bên”, bà Bảy ừ, nói “nước đứng thì đi”, chị cán bộ trẻ thu máy, nhón tay viết thêm một chữ bằng bút lông vào mẩu giấy của riêng chị, chữ “chậm”, treo cạnh “Yên - Nhịn - Ơn”, treo xong, chị lấy xuống, cười, bảo “để treo trong phòng làm việc”.

Đoàn lên xe, bờ trở lại tiếng quen, con Nụ chạy ra mép cỏ, ôm bảng nhảy chân sáo một vòng, Tín thở phào, nới nút, anh Hai ngồi thụp xuống mép sàn tre lấy dao gọt mấy sợi xơ ở đầu cọc mới, My cuộn tấm giấy hoa văn vào ống, miệng lầm rầm “mùa nước lớn về còn việc”, Phúc xách máy đi một vòng bờ, chụp mấy tấm ảnh có nhiều khoảng trống, nói “bài thứ hai của loạt ‘Rành - Vừa - Yên - Nghe’ kể Lớp yên xong thì tới ‘Chậm’”, Khoa chống tay lên đầu gối, nói bâng quơ “đêm qua phim ‘đủ rồi’ có một bình luận dài kể chuyện ngoại ở Bạc Liêu bồng coi rối dưới đèn dầu, đọc xong mới thấy quay ít hình cũng có ích”, ông Trọng nhấp ngụm nước lá dứa, bút mực gác lên mép tách, nhẩn nha “chữ ‘chậm’ treo trong phòng làm việc khó hơn treo trên cột bờ, nhưng treo hoài cũng quen”.

Xế trưa, mây xếp mỏng lại như khăn phơi, trưởng ấp ghé báo “chiều có mưa rào hiền”, bà Bảy bảo “để mưa rửa phên, rửa ngưỡng hiên”, rồi dặn Thu An nhắn cô giáo thị trấn “Lớp yên” chuyến sau mang ít áo mưa mỏng, để tụi nhỏ học ngửi mùi lá dứa trong mưa, học nghe tiếng nước rơi lên mặt nước, học chạy vào hiên mà không làm đổ chén, học gỡ nút ướt, học ngồi yên lúc bấc đèn rít, Thu An nghe mà tay đã viết vào sổ những dòng giống như bài tập về nhà của một lớp học khác chữ: “thực nghiệm mưa - mùi - tháo - gỡ - yên”.

Mưa đến đúng giọng “hiền” như trưởng ấp đoán, hạt to mà thưa, rơi lên mái rơm tiếng lộp bộp như tiếng người gõ cửa dè dặt, rơi vào mặt sông nghe như tiếng người nhà trở về nói khẽ “tôi về”, tấm phên rửa bụi, sợi dây néo uống một bụm nước rồi nằm sẽ, khói lá dứa trong chòi bốc một đường thẳng rồi lịm, Thu An kéo màn tre, bật một đèn dầu, chòi thơm như bếp đang hong lúa, bà Bảy kể nhắc lại đoạn xưa “đêm mưa hiên đình” cho con Nụ nghe, con bé ôm bảng ngáp mà vẫn gật, đôi mắt mỏng nước như lá sen non, ông Sáu vuốt dây, cô Ba cất chập chõa, Tín kê lại mái chèo dưới cột, anh Hai thổi khô lưỡi dao, Khoa đặt hộp máy vào góc khô, Phúc đếm ảnh trong máy coi có tấm nào ướt, My nghiêng tai nghe tiếng mưa đổi giữa mái rơm với tấm vải thô - thứ chênh lệch nhỏ xíu mà ghi vào sổ thì thành một công thức.

Gần xế chiều, bưu tá đạp xe tạt vào, đưa phong thư nhỏ của thủ từ ao đình, giấy đục màu, chữ mảnh như tóc, “Nước đứng chiều kia, thỉnh bờ qua, dạy cho bầy nhỏ buộc nút - ngửi mùi - chào Tổ - nói nhỏ - ‘ừ’ đúng chỗ”, bà Bảy đọc xong, cười nửa miệng, nói “đi”, Thu An gật, tay lật sổ mở trang mới “Ao đình - Lớp yên dã ngoại”, nghĩ tới bầy trẻ dưới liễu rủ, tới mùi trầm chen mùi lá dứa, tới tiếng mõ lẫn tiếng chập chõa, tới chữ “ừ” bơi qua bờ như một con cá bạc, lòng nó tự dưng yên như nước ròng vừa vặn đáy.

Mưa dứt, nắng muộn rót xuống mép bờ như ai rót mật ong vào miệng chén men ngà, con sông Hậu đổi tư thế, nằm nghiêng cho bờ so lại tóc, người trong chòi dọn từng thứ nhỏ như dọn bếp sau đám giỗ, không vội, không chậm, chỉ “vừa”: Tín kiểm dây, anh Hai dựng cọc, My buộc ống, Khoa lau kính, Phúc cất máy, ông Sáu phủ khăn, cô Ba xếp chập chõa, ông Trọng trượt bút viết bốn chữ “đủ yên chậm”, viết xong lại gạch chữ “đủ”, bảo “đủ là trong ngực, không cần treo”, bà Bảy gập khăn đường chỉ xanh đặt về chỗ, mắt lướt qua mép, tay nhón hạt muối thả vào ấm nước - thói quen nhỏ mà giữ bờ dài.

Đêm đến như chiếc mền mỏng kéo qua vai, đom đóm bật lửa muộn, tiếng côn trùng ở ruộng lên đều như tiếng máy thoi chậm, con Nụ ngủ ôm bảng, miệng vẫn mấp máy chữ “xin”, Thu An ngồi bậc tre, mở sổ, viết vào trang “Sở xuống” những dòng không dài mà đầy: “ba phút yên cho người lạ - mùi đo bằng hơi - nước là họa sĩ - crowd-adaptive tempo - nhường gió - giá trị đổi bằng yên - treo chữ chậm trong phòng làm việc”, bút máy cà nhẹ trên giấy như mái chèo chạm mạn, mực thấm vừa đủ như mưa rào hiền thấm đất, rồi nó ngẩng lên, nhìn ra mặt sông nơi vệt trăng còn mỏng, tay vẽ trong không khí một sợi chỉ mới nối từ tờ giấy “Xin ngồi yên ba phút” đến form “di sản đương đại” đã lấp đầy bằng chữ tay, từ form ấy tới liễu rủ ao đình, từ liễu rủ ao đình tới chiếc chậu nước của Lớp yên, từ chiếc chậu tới mũi ghe Năm Tỵ, từ mũi ghe tới nút tháo khẩn ở sào thứ ba, từ nút tháo khẩn tới đường chỉ xanh trên khăn, từ đường chỉ xanh tới chén nước mẹ vừa rót, sợi chỉ ấy mảnh mà dài, đi qua tiếng người, đi qua mưa, đi qua mùi, đi qua ánh, đi qua tiếng, đi qua những “không” đã nói và những “ừ” đang đợi, buộc lại thành một vòng không thắt, để sáng mai, khi mặt trời vừa chạm đọt bần, khi bầy trẻ bên ao đình chụm lại bên bờ liễu, khi thủ từ gõ một tiếng rất khẽ mở cửa bến, gánh sẽ chống mái đi, đèn dầu gói kỹ, mùi lá dứa thắt thấp, bảng “Xin nói nhỏ” lót trong bọc, bốn chữ treo ở cột nằm yên trong trí nhớ, để kể thêm một đêm nữa, ngay trước mặt nước, theo đúng chiều gió, đúng hơi người, đúng giọng bờ.

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout