Chương 15: Lớp yên mở cửa



Buổi sớm hôm Lớp yên hẹn mở, con sông Hậu nằm như một tấm vải thô đã hong đủ nắng, dẻo tới mức chỉ cần chạm nhẹ mũi tay là lún xuống một mẩu ấm, mùi lá dứa mẹ hãm từ khi gà bối rối gáy lần đầu quấn lấy mùi bùn ròng đêm qua còn sót, thành ra gian chòi rối như một cái bếp đang thở, ấm mà không bí, sạch mà vẫn giữ vài hạt bụi nhỏ cho câu chuyện khỏi trơn; Thu An ra mở then, đặt đầu ngón tay lên vệt dầu bóng ở mép phên mới thay, thấy tiếng “yên” bé xíu chạy qua tay như con cá lia thia quẫy đuôi, bèn rót hai chén nước, một chén đẩy về phía mẹ, chén kia đặt sát đường chỉ xanh trên khăn, coi như buộc thêm một mối nữa vào sợi chỉ vô hình giữa người với nước trước giờ đón đám nhỏ từ thị trấn xuống bờ.

Tin nhắn cô giáo gửi lúc trời còn chưa leo khỏi đọt bần: “Tụi nhỏ đi xe buýt, đến chừng tám giờ rưỡi, đứa nào cũng đã dặn ‘nói nhỏ’ trước từ trong lớp”, chữ hiện trên màn hình như mùi bánh ít lá gai vừa mở lá, nóng hổi mà mềm; bà Bảy nghe xong gật nhẹ, bảo “thêm mùi muối vô ấm coi con”, rồi vừa thả mấy hạt muối như thói quen vừa nhắc “người đông thì yên càng phải dày”, câu nói rơi xuống hiên như một cái nút chèn thêm vào chỗ mối nối, không chát mà chắc; anh Hai khiêng bó tre ra, Tín chống mái chèo đo mực ròng, cô Ba lau mặt đồng, ông Sáu vuốt sợi tơ, My lôi ống giấy hoa văn “mồ hôi vảy cá” định để dành mùa nước lớn nhưng hôm nay muốn cho tụi nhỏ sờ thử mặt giấy dầu, còn ông Trọng thì mang theo ống mực tàu, bảo bữa nay viết ít thôi, treo thấp, để mắt con nít nhìn tới là thấy chữ hiền.

Tám giờ rưỡi, xe buýt dừng ở đầu hàng dâm bụt, bầy chân nhỏ bước xuống như một chuỗi hạt đếm còn sai tay, cô giáo đi sau, cười ngại, nói “tụi nó háo hức quá, em sợ làm rộn”, Thu An đáp “rộn ngoài, yên trong”, rồi đưa tay xin từng đứa đặt mu bàn tay cách mặt nước một gang, nhắm mắt mười nhịp tim, đếm gió bằng xương tay chứ không bằng mắt, đứa nào mở mắt trước là phải ôm bảng “Xin ngồi yên” đi một vòng, vậy mà kỳ lạ, bọn nhỏ làm được, chỉ còn vài môi mấp máy tủm tỉm, còn lại im như cỏ rạp lúc gió lùa qua rồi thôi; con Nụ ôm bảng đứng bên, nghiêm như lính gác đình, cặp răng sún lóe lên dưới nắng mỏng, mắt chớp chớp mà chẳng dám cười to, vì bảng của nó hôm nay là thầy.

Bài học mở đầu của Lớp yên không có chữ, chỉ có mùi: Thu An bốc hai nhúm lá dứa, một nhúm phơi vừa, một nhúm phơi già, đặt lên hai cái lò nhỏ, lửa thiu thiu như người dè dặt hỏi thăm, khói bò ngang một đường mảnh đến mức phải nghiêng đầu mới thấy, nó bảo đứa nào ngửi mà thấy “ngọt lửng” là lá dứa vừa, đứa nào ngửi thấy “ngọt gắt” thì là phơi già, phơi già dùng để đuổi mùi ẩm sau mưa chứ không dùng lúc kể vì sẽ cãi nhau với tiếng; tụi nhỏ đứa nhíu mũi, đứa nhắm mắt, đứa đặt tay lên ngực, đứa quay sang nhìn bạn như xin phép mượn mũi, cả bờ bỗng như thành một căn bếp tập thể, nơi mùi được dạy trước khi chữ, nơi hơi được dạy trước khi tay, nơi yên được dạy trước khi nói.

Qua mùi đến nước: Tín kê một chậu, đổ một láng mỏng như người rót dầu nuôi đèn, đưa cho mỗi đứa một con cá lá dừa đã tước sẵn, dặn “kéo theo hơi, đừng kéo theo mạnh, khi mặt nước mềm như vạt áo mới phơi thì buông, khi mặt nước căng như dây buộc thúng thì nhẫn”, mấy đứa ban đầu vụng về, nước văng khỏi mép, My đứng sau đưa miếng vải chậm, không la, không “ái”, chỉ đặt bàn tay mình lên cổ tay đứa nhỏ cho nhịp thở nó đậu xuống, hai đợt là khá hơn, cá lá dừa lướt qua chậu nghe như câu chuyện không dùng động từ mạnh, chỉ toàn những chữ “ừ” và “thôi”.

Giờ thứ ba, ông Sáu cho tụi nhỏ “nghe bờ”: ông kéo hai dây rất nhẹ, rồi bảo bọn nhỏ chạy ra bờ cỏ, ngồi thấp xuống, nhắm mắt, đếm xem tiếng đờn “đến” chậm hơn hay nhanh hơn tiếng chập chõa, có đứa mở bừng mắt hỏi sao đờn mà lại “đến”, ông cười, “vì bờ thở, tiếng phải qua hơi bờ mới tới tai con”, câu trả lời làm mấy cái cổ nghiêng nghiêng, rồi bọn nhỏ thử đếm, đứa viết 3-1, đứa 2-2, đứa 1-3, tất cả đều học được một điều ngây thơ mà đúng: tiếng có chân, mùi có cánh, ánh có bóng, nước có hơi, bờ có tim.

Đang lúc lớp yên chạm nhịp đều, một người đàn ông mặc áo sơ mi trắng, dây lưng bóng, tay xách túi vải to, tự giới thiệu là phụ huynh của một đứa trong đoàn, xin được góp “máy khói thơm” để “mùi lên đều”, mắt ông sáng theo kiểu người quen thao tác công nghệ, lời nói trôi như dầu mới, ông rút ra một bộ phun tinh dầu chạy điện, có cả bảng mùi in sẵn tên “lá dứa”, “hoa lài”, “quế”, “bưởi”, bảo chỉ bấm nút là thơm, không cần lửa, lại an toàn, tiện ích; đám nhỏ tròn mắt, cô giáo lúng túng, Thu An đỡ lấy bộ phun, đặt xuống ghế tre, mời ông nếm một chén nước lá dứa thật, mời ông ra sát bờ, xin ông đặt tay lên sợi dây néo, mời ông nghe tiếng nước dồn vào gầm phên khi gió đổi hướng một đoạn nhỏ, rồi mới nói, rất chậm, rằng mùi ở đây giống như tiếng mọc từ cổ họng, có rễ, có khi lỡ tay, có lúc hụt hơi, có đêm nhịn, có bữa lỡ, chính vì thế nó mới nhớ, còn mùi phun thì như tiếng thu sẵn, đều quá thành bằng, mà bằng thì trôi tuột; người đàn ông đỏ mặt, nhìn bờ, nhìn con đang ôm cá lá dừa, hạ giọng, bảo “xin lỗi vì nôn”, rồi tự tay cất bộ phun vào túi, đề nghị… phụ kê ván cho tụi nhỏ khỏi trượt, cả chòi cười nhẹ như gió vuốt tóc, con Nụ ôm bảng chỉ vào dòng “Xin nói nhỏ”, người cha mỉm cười, gật đầu, tiếng “ừ” rơi khỏi miệng như hòn sỏi nhỏ rơi xuống nước, tròn, gọn.

Xế trưa, trời kéo một ít mây mỏng như ai phơi khăn, Thu An cho cả lớp nghỉ ăn, dì Tám bưng nồi chè sen non thủ từ ao đình gửi hôm trước, mùi mát trườn qua mép bờ như một con rắn nước hiền, bọn nhỏ ngồi theo hàng, bát nào cũng không tràn, cô giáo ghé tai Thu An nói thấp “em không ngờ tụi nó chịu ngồi yên vậy”, Thu An đáp “có bảng”, chỉ vào con Nụ, con bé đỏ tai, cười sún, ôm chặt cái thước phấn như ôm cây đàn; ông Trọng ngồi dưới bóng dừa nước, mở ống mực, viết một dòng lớn hơn mọi bữa treo ở cột thấp: “Yên là chỗ ai cũng nghe được người khác thở”, tụi nhỏ đọc, nhíu mày, rồi bỏ chạy ra bờ, ngồi thử, nghe tiếng bạn thở, nghe tiếng mình thở, nghe tiếng bờ thở.

Buổi chiều, Lớp yên chuyển sang bài “tháo khẩn”: cô Ba gõ hai tiếng chập chõa xa nhau bằng một hơi dài, ông Sáu kéo dây trầm xuống như rút nước, Thu An chỉ tay vào nút ở sào thứ ba, bảo “nghe tiếng ‘rút’ thì tay nào làm gì, mắt nào nhìn đâu”, bọn nhỏ tập như trò chơi mà không hề náo; bỗng từ phía vàm, gió đổi một nấc, mặt sông dựng những vân nhỏ như da gà, tấm bạt phơi sau hiên run bần bật, tấm phên ngoài kêu tạch một tiếng khô, Tín đã đứng sẵn ở mép, nhấc mái chèo cắm xuống, anh Hai thót bụng, đỡ sào, Thu An hạ đèn nửa nấc, cô Ba kéo nhịp dài, tụi nhỏ nín, cô giáo nắm tay đứa nhỏ nhất không siết, bờ đổi giọng trong một chớp mắt dài, rồi yên như người vừa ho xong, Lớp yên bỗng có một bài thực hành không hẹn, đứa nào cũng mở to mắt, nhưng không la, vì bảng “Xin nói nhỏ” đang dọi chữ xuống nền như bóng của cái thước kẻ.

Ngay sau cơn gió nhỏ, Khoa tới, tay ôm hộp máy, mặt tươi mà ngại, nói “phim ‘đủ rồi’ em đăng khuya qua, bình luận chia làm đôi: người khen ‘thở được’, người chê ‘chán’, có một tài khoản bảo ‘thiếu drone’, một tài khoản khác hỏi ‘mùi từ đâu ra’, em trả lời ‘từ tay’, rồi cất máy, ngủ, sáng dậy thấy người khen thêm, người chê lui, em bỗng nghĩ chắc phim không khiến ai vỗ tay ầm, nhưng khiến vài người hạ giọng xuống, vậy là được”, bà Bảy nghe, rót chén nước, đẩy về phía Khoa, bảo “uống chậm”, không khen, không dặn, chỉ như cài thêm một cái mấu vào bậc thang để người leo khỏi hụt chân.

Gần chiều, trưởng ấp ghé đưa lại bộ hồ sơ “di sản đương đại” của Sở Văn hoá, nói người phụ trách muốn xuống tận nơi học mùi vào đầu tuần, xin nhà sắp xếp cho ngồi yên năm phút trước khi hỏi như lời bà Bảy nhắn; Thu An gật, viết vào sổ “đón khách bằng yên”, “dạy bằng mùi”, “trả lời bằng tay”, cười một mình vì thấy mình bắt đầu viết thành công thức, mà thật ra chỉ là mấy động tác của bờ ghép lại cho gọn.

Đúng lúc ấy, anh thợ trẻ từng giăng dây ẩu ở bến chợ ngày nào đạp xe tới, áo phông sẫm mồ hôi, ôm theo một bó dây điện bọc tốt, xin tặng “để rút kinh nghiệm bằng đồ tử tế”, anh nói đêm qua coi phim Khoa đăng, thấy khúc hạ đèn nhường gió, bỗng thèm đứng im năm phút, bỗng nhớ lại lần dây ẩu làm bờ sợ, bèn qua, xin treo giúp tấm bảng “Xin uống nước chậm” ra giữa bóng râm, để ai khát mà vội thì chạm mắt trước, Thu An gật, con Nụ chạy đi báo “bảng đã được treo cao”, chữ phấn trắng nổi trên nền râm như một cái răng sún, buồn cười mà thương.

Hoàng hôn tràn vào như lớp mật mỏng, Lớp yên kết bằng một bài “gọi tên ơn”: bà Bảy đọc danh sách Thu An đã viết đêm qua - người giữ hơi, người nói nhỏ, người dời loa, người trả áo phao, người bưng chè sen, người gỡ dây ẩu rồi quay lại xin lỗi, người chụp ảnh không giật, người cắt phim không lời - đọc tới đâu, tụi nhỏ dạ tới đó, “dạ” ngắn mà sâu, bờ như nhận được một mẻ phù sa mịn; cô giáo từ thị trấn chắp tay như người đi lễ, nói “cho em mượn bốn chữ treo ở cột dạy lớp đọc chậm, nối thêm chữ ‘ơn’ và ‘nhịn’ ở cuối cho tụi nhỏ nhớ”, ông Trọng cười, bảo “mượn gì giữ nấy”, rồi lấy bút mực viết tặng lớp một tờ “Rành - Vừa - Yên - Nghe - Nhịn - Ơn”, treo thấp để mắt trẻ khỏi phải kiễng.

Đêm xuống, chòi rối im như một căn phòng sau đám giỗ đã rửa sạch chén, chỉ còn mùi bếp ấm, con Nụ ôm bảng gục trên vạt chiếu, tay vẫn giữ chặt mép, đôi môi mấp máy chữ “xin”, cô My gom hoa văn cất vào ống, Khoa đóng nắp hộp, Phúc chụp một tấm ảnh rất tối - chỉ thấy bóng tấm bảng, một ngọn đèn dầu, một đầu mái chèo dựng vào sào - rồi tắt máy, anh nói “bài thứ hai trong loạt ‘Rành - Vừa - Yên - Nghe’ sẽ kể Lớp yên”, Thu An gật, dặn một câu “đừng cho chữ chen nhau”, ông Sáu phủ tấm khăn mỏng lên đờn, cô Ba lau mặt đồng, Tín kiểm lại nút tháo khẩn, anh Hai mở bó tre, chọn vài cây mới vót, bà Bảy gấp khăn có đường chỉ xanh đặt lại ngay ngắn, ánh mắt dừng ở mép như người vuốt tóc con nít trước khi ngủ.

Khuya hơn, gió đồng thổi một hơi mặn rất nhẹ qua mái rơm, bờ sông yên tới mức có thể nghe tiếng con dế vỡ giọng dưới gốc dâm bụt, Thu An ngồi ở bậc tre, mở sổ, chép “Bài học mùi trước chữ”, “Bài học hơi trước tay”, “Bài học tháo trước buộc”, “Bài học gọi tên ơn”, “Bài học xin nói nhỏ”, từng dòng như mũi kim ghim vào tấm vải thô, ghim lên đó một chương trình học làm người bờ; viết xong, nó ngẩng lên, nhìn đường chỉ xanh trên khăn mẹ thêu, bỗng thấy mối “chia” mẹ dặn đêm qua đã có chỗ cột: chia yên cho trẻ thành phố, chia mùi cho người ở xa, chia tiếng chậm cho người bận rộn, chia cách nhịn cho người hay nóng.

Sáng kế, trời kéo sương như một lớp khăn voan, Lớp yên bế giảng bằng một bài thi không chấm điểm: mỗi đứa bồng một chén nước đầy tới miệng, đi qua một đoạn sàn tre nghiêng nhẹ, không được đổ ra ngoài mép, không được vội, không được nhìn điện thoại, chỉ được nhìn mặt nước trong chén như nhìn vào mắt bạn, đứa nào đổ là bắt đầu lại, đứa nào tới cuối mà còn đầy là được ngồi bậc tre ôm bảng một phút; kết quả làm ai cũng cười, vì hầu hết phải bắt đầu lại, nhưng tới lần thứ ba thứ tư, chén nước đầy hơn, bước chân chậm hơn, mắt dịu hơn, con Nụ ôm bảng một phút mà tưởng như ôm con mèo con, Thu An đứng cuối hàng, đỡ chén cho đứa nhỏ nhất khỏi run, lòng nghĩ thầm “chắc nên mang Lớp yên qua ao đình một bữa”, để sợi chỉ giữa hai bờ thắt thêm một mối.

Giữa buổi, bưu tá huyện lại ghé, đưa một phong thư nhỏ mộc mạc: thủ từ ao đình mời gánh sang “trả ơn” bằng một giờ dạy trẻ con làng bên buộc nút, ngửi mùi, nghe tiếng, chào Tổ, hẹn khi nước đứng, “để chữ ‘ừ’ của đêm đó có thêm con”, bà Bảy đọc xong mỉm cười, nói “mình đi”, Thu An gật, mắt trong veo như mặt nước ròng, nó tưởng tượng ra bầy trẻ con ngồi bên liễu rủ, bàn tay đặt vào sợi dây rơm, mùi trầm chan với mùi lá dứa, tiếng mõ vọng nhẹ mà không lấn chập chõa, nó nghe tiếng “ừ” ngày cũ từ giêng hậu đình lội qua sông, đứng ngay mép bờ nhà, chờ một câu “đi”.

Chiều nghiêng, gió đầu vàm bí mật hạ một nấc, tấm phên không kêu, nước không cựa, đom đóm bắt đầu lên muộn như một lớp học buổi tối, bà Bảy dọn ấm, nhón muối, rót hai chén, đẩy một chén về phía con gái, bảo “ngày mốt khách của Sở xuống, con nhớ để họ ngồi yên trước, đừng vì nể mà nói trước”, Thu An dạ, rồi cười, “con sẽ treo thêm một tờ ‘Xin ngồi yên ba phút’ bằng bút lông”, bà gật, mắt sâu như mắt giếng, nói “nhớ treo thấp cho mắt người bận nhìn tới”.

Đêm phủ, chòi rối tắt đèn, chỉ chừa một đốm mờ cho lối đi, con Nụ ngủ khì ôm bảng, hơi thở đều như tiếng nước rút dưới phên, ngoài kia, con sông Hậu vươn người, đổi tư thế như người nhà sau một ngày dọn bếp, sạch sẽ mà không lạnh, Thu An nằm nghiêng, tay vẽ trong không khí một sợi chỉ mới nối từ bảng “Xin nói nhỏ” sang tay một người cha vừa biết xin lỗi, từ tay người cha sang mắt con gái đang ôm cá lá dừa, từ mắt con sang nút tháo khẩn ở sào thứ ba, từ nút tháo khẩn sang mùi lá dứa phơi vừa, từ mùi lá dứa sang chữ “ơn” ở chân cột, từ chữ “ơn” sang vệt trăng lững lờ trên mặt nước, sợi chỉ ấy mảnh như tóc nhưng bền như gân, buộc vào đâu cũng không làm đau, cột vào đâu cũng không rít, sáng mai mở cửa, nó sẽ rót hai chén nước, đặt một chén lên đường chỉ xanh, bưng một chén ra hiên đưa cho mẹ, ngó xuống sông, nói khẽ như nói với một đứa trẻ vừa biết thở sâu: “Hôm nay mình học tiếp.”

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout