Sáng sau Ngày hội, con sông Hậu nằm im như người vừa đi hết một quãng đường dài bỗng tìm được chiếc chõng mát ở hiên nhà, hơi sương rút chậm khỏi mái rơm để lộ những lằn vàng nhỏ như sợi chỉ ươm nắng, mùi lá dứa trong ấm nước mẹ hãm từ lúc gà gật gáy hòa vào mùi bùn ròng đã lắng, tạo nên thứ mùi hiền như cháo gạo rang mới nhắc khỏi bếp, Thu An mở then cửa, đặt tay lên mép phên, ngón tay lướt qua vệt dầu bóng đã thấm thành da, nghe thấy trong thịt gỗ một tiếng “yên” rất nhỏ, nó rót hai chén nước, chén cho mẹ đẩy về phía khăn có đường chỉ xanh, chén của mình đặt sát mép ván nơi sương còn đọng, hít một hơi dài như người ta thở để trả lễ cho buổi đông người hôm qua, rồi mới khẽ khàng quét lại sàn, nhấc từng tấm phên, ngó từng mối dây, ghi nhanh một hàng chữ vào sổ rằng “mùi thả sớm hơn nửa nhịp đã đủ”, “đèn giữ thấp ở đợt ba hợp”, “bảng nói nhỏ treo cao khỏi tay trẻ”.
Trưởng ấp ghé từ tinh mơ, tay ôm xấp giấy gói bằng giấy dầu giữ khỏi ẩm, nói như người báo tin đã qua: đoàn truyền hình tỉnh gửi thư cám ơn vì bờ giữ hơi cho họ, họ xin bản tóm tắt bốn chữ treo ở cột để làm chú thích, hứa phát lại vào suất cuối tuần không chen quảng cáo, còn nhóm nước đóng chai xin để tấm bảng “Xin uống nước chậm” ở góc râm thêm một tháng, lo phần thay bàn tre nếu dột; bà Bảy nghe, gật nhẹ, nói một câu chậm như thả chiếc lá xuống nước “ai giữ nhẹ thì ở lâu”, rồi nhờ trưởng ấp nhắn cho họ đừng dán thêm chữ lên bàn, góc râm chỉ nên có nước, tay cầm lên uống chậm thì chỗ đó tự khắc hóa rộng.
Bói nắng lên khỏi đọt bần, ghe bạn chài tới trả áo phao, mỗi cái mang chút mùi người dùng qua, thứ mùi mặn mỏi thân mà ấm, con Nụ ôm bảng “Xin ngồi yên” đứng ngay bậc tre, nghiêng đầu coi từng cái móc còn chắc, miệng lẩm bẩm như đọc thần chú, chữ phấn trên bảng đã nhòe một tẹo ở góc do hôm qua tay nó cầm lâu, Thu An đưa miếng giẻ, chùi nhẹ, viết thêm nét đậm vào chữ “yên” cho khỏi trôi, rồi dặn con bé mang bảng đặt dựa vào cột có chữ “ơn”, vì sau hội, người còn đông đâu đó trong không khí, cái “ơn” nên đứng gần tầm mắt.
Đến xế, Khoa xách hộp máy tới nhưng không mở, mặt bớt phờ, giọng thoáng vui, nói đã cắt xong bản phim ngắn “đủ rồi” đúng như đã hứa, chỉ vài hơi thở, một vệt mùi, một khoảng yên, một tiếng đờn vuốt qua mép từ, anh xin phép tối nay chiếu thử cho nhà coi trong chòi, không mời đông, không dựng màn to, chỉ dùng tấm vải thô cô My tính làm “màn nghỉ”, ánh đèn dầu hắt nhẹ phía sau, ai có mặt thì coi, ai bận thì để gió coi giúp, bà Bảy ừ, bảo tới giờ cơm xong hãy mở, trước đó phụ tụi nhỏ dọn bờ, vì bờ sau hội giống như cái bếp sau đám giỗ, phải rửa sạch chén, hong khô rổ rá, sắp lại cối, cất lại thớt, mùi bếp mới ấm lâu.
Phúc đến chậm hơn mọi bữa, vai đeo máy nhưng tay không nắm chặt, anh đưa Thu An tấm ảnh in nho nhỏ “yên có hình” đã lồng khung mỏng, bảo đem treo góc bàn thờ Tổ như một cái heo đất bằng giấy, ai tới chào bờ cứ bỏ vào đó một câu “ừ” lặng, những “ừ” tích lại sẽ thành giếng nước, khát thì tới múc; kèm tấm ảnh là thiệp tay do tòa soạn anh viết, xin mượn bốn chữ treo ở cột để đặt tên một loạt bài về bờ, tên chung “Rành - Vừa - Yên - Nghe”, Phúc cười, nói bài đầu là “Rành chỗ bớt”, kể chuyện bờ chối logo in phên, nghe mà lòng Thu An mát như gặp bóng dừa nước, nó gật, dặn anh giữ đúng chữ, chỗ nào thiếu mùi thì thôi đừng thêm, chữ như nước mắm, mặn thì khát, nhạt thì ngán, vừa thì nhớ.
Trưa đứng bóng, đoàn sinh viên kiến trúc hẹn bù giờ tuần trước ghé lại, lần này không hỏi ánh, không hỏi hiệu ứng, họ xin ngồi im mười lăm phút bên phên, bút đặt cạnh đùi, không ghi, không vẽ, chỉ nghe, chỉ ngửi, chỉ nhìn, rồi người này kể cho người kia nghe những gì mình vừa không ghi, cách học lạ lùng ấy làm bà Bảy nhìn mà lòng vui, vì thấy tụi trẻ chịu học nhẫn, sau mười lăm phút, một cô sinh viên tóc buộc thấp hỏi Thu An “chỗ bớt hôm qua chọn theo mắt hay theo gió”, Thu An cười, đáp “theo mạch bùn”, câu đáp khiến cô gái chớp mắt như vừa phát hiện một lối nhỏ, cô hỏi mạch bùn nhìn bằng gì, Thu An đưa ngón tay chấm vào mặt phên, nói “bằng tay trước, bằng mũi sau, bằng mắt sau nữa”, người xung quanh gật, tiếng gật rơi xuống sàn gỗ nghe như tiếng hạt cốm.
Xế chiều, có một chiếc xe bảng số thành phố ghé bờ, hai người trong áo công sở bước xuống, giới thiệu là đại diện một trung tâm biểu diễn hiện đại muốn đưa gánh lên sân khấu nước trong nhà, hứa hẹn bồn nước, ánh trùm, khói khô, ghế êm, vé bán tốt, lịch cố định vào mỗi tối cuối tuần ba tháng liền, gánh có thể đem mùi lá dứa lên, nhưng xin bỏ đèn dầu vì ảnh hưởng hệ thống khói; lời mời sáng như vảy cá nhựa dưới đèn siêu thị, Thu An nghe, tay tự động gấp cuốn sổ lại để khỏi run, mắt liếc về mẹ như tìm một sợi chỉ, bà Bảy mời họ vào chòi uống nước lá dứa, rót chậm, nói từ tốn rằng gánh kể nhờ nước ngoài bờ, trong nhà kín, nước là nước của hồ, không phải sông, mùi lá dứa lên đó như người đi phố mang dép lốp, cứ lạc, còn “lịch cố định” nghe thì êm mà ngán, vì câu chuyện này đi bằng gió, bằng trăng, bằng mùi chín muộn, có bữa gió đổi một nấc là đã phải nín, các anh chị thương bờ thì xin cho bờ được hứa theo lối bờ, ai muốn coi thì mời xuống, tiếng nói ấy không gay, cũng không ngọt, mà đủ độ, khiến hai vị khách chậm giọng, hỏi “vậy nếu làm một đêm duy nhất”, bà nói “đêm duy nhất ở nhà, chứ trong nhà của mấy anh thì để tụi nhỏ khác hợp hơn”, họ cười trừ, xin chụp tấm hình kỷ niệm, chụp xong, họ bỏ danh thiếp lại, nói “lỡ khi nào bờ đổi ý”, bà cất tấm danh thiếp vào hộp gỗ cũ chứ không bỏ, bảo “cái gì không dùng hôm nay biết đâu mai dùng”, rồi quay sang con gái, mắt hiền mà rắn, như đinh tre đóng vào rãnh đúng chỗ.
Khi nắng rút khỏi mép bờ, con Nụ mang bảng ra lau, hỏi “bữa nay có kể nữa không”, Thu An xoa đầu, bảo tối nay coi phim của chú Khoa, mai nghỉ một bữa dài cho dây tơ đờn mềm lại, chòi rối thành rạp nhỏ, tấm vải thô căng ở trần, đèn dầu đặt phía sau, bóng người ngồi đổ xuống như những bờ cỏ cúi mặt nghe nước, Khoa bật máy, tiếng lạch cạch của ổ cứng thế vào tiếng vặn nắp lò, rồi hình hiện, không phải hình rực rỡ, chỉ là những miếng không khí đã được cắt vừa tay: sợi khói mỏng leo qua mép phên rồi tan, mặt nước lăn tăn một đỗi lâu như ai đang chần chừ, bàn tay đặt lên công tắc rồi rút ra đúng nhịp gió, bóng lưng người ngồi thẳng, tấm bảng phấn hiện một góc, chữ “Xin nói nhỏ” trong trẻo, tiếng đờn của ông Sáu hiện ra mỏng mà rắn, tiếng chập chõa cô Ba như tiếng cửa đóng rất khẽ, phim hết lúc không ai nghĩ là hết, chỉ thấy trong ngực nhẹ một vòng nước, người trong chòi thở cùng nhau, không vỗ tay, không “hay”, chỉ cười nhỏ, bà Bảy gật, nói “đủ”, Khoa cười, mắt ươn, bảo “vậy thôi”.
Đêm sâu dần, mùi nước lấn mùi người, những nhà lân cận hạ bấc, đom đóm ở ruộng rút vào bờ lau lách, Thu An ngồi bậc tre, mở sổ, chép lại những va chạm nhỏ trong ngày như người gỡ cá: tấm ảnh “yên có hình” treo yên ngay góc; bốn chữ trên cột được hỏi mượn đặt tên bài báo; nhóm nước xin ở lâu với tấm bảng uống chậm; lời mời sân khấu nước trong nhà đã được trả bằng một chén lá dứa; mấy đứa sinh viên đã chịu ngồi nghe mười lăm phút không ghi, chữ “mạch bùn” đã chạm tim một cô gái; buổi chiếu phim đủ rồi đã khiến người cười không cần nói; nó chép hết, mỗi chữ thả như một hột lúa, để mai mở ra gặp mầm.
Sáng kế, trời kéo sương như phủ một lớp khăn ẩm, Tín tập đi nhanh hơn, chân trái bớt đau, anh xin bà Bảy cho lui ra mép phên, bà gật nhưng dặn chỉ tới mắt cá, anh Hai vác tre, đổi một cây cọc quá già bằng một cây mới vót, cô My đem mấy mảng hoa văn chưa dùng cất vào ống, nói để dành cho mùa nước lớn, vì mùa đó mảng “mồ hôi vảy cá” sẽ phát tiếng, ông Trọng ngồi dưới hiên, mài ngòi bút máy, hỏi Thu An “chữ ‘chia’ mẹ nói tối qua con định chia cái chi trước”, Thu An nghĩ một hơi, đáp “chia cách nghe cho mấy lớp học ở thị trấn”, định rủ cô giáo bữa kia đem tụi nhỏ xuống bờ một bữa ngồi im không chương trình, chỉ ngửi, chỉ nhìn, chỉ đếm gió, ông Trọng gật, bảo “đặt tên buổi đó là ‘Lớp yên’”, chữ hiện ra như mảng nắng mỏng trên bàn tre, nghe tới đó, bà Bảy bưng ấm nước, nhón muối thả vào, nói “lớp yên mở thì nhớ mượn thêm áo phao, mấy chuyện lặt vậy mới bền”.
Gần trưa, một đám mây dày tụ ở phía rừng tràm, gió kéo theo mùi mưa, trưởng ấp chạy qua nhắc coi chừng chiều giông, tốt nhất dẹp đồ dễ ướt, dời mấy thứ đang phơi vào dưới mái, nhắc nhà ai có ghe neo lại hai chỗ, Thu An nghe, gật, không ngại, vì mưa trái mùa ở đây như một bà cô khó tính, tới là báo, không ập ngang, nhưng muốn đón thì cũng phải dọn đường, nó phân việc nhanh hơn mọi bữa mà giọng vẫn chậm: Tín thu lưới mịn, anh Hai nâng phên, My gom giấy, Phúc chạy đi nhắn bà con kéo bạt, Khoa cất máy, ông Sáu lau đờn bằng khăn có hơ ấm, cô Ba vén mép vải, con Nụ ôm bảng chạy vòng, tấm phấn đập nhẹ vào ngực như một cái trống nhỏ đếm nhịp, mấy đứa nhỏ xóm dưới phụ gánh mấy rổ lá dứa khô vào hiên, tiếng chân lẹp kẹp trên sàn nghe vui.
Mưa đến chậm như được mời, hạt lớn rơi thưa, mái rơm thở tiếng lộp bộp đều tay, bờ sông xám lên như mặt nồi đất đang sôi riu riu, Thu An kéo màn tre, bật một đèn dầu, cả chòi thơm mùi lá dứa đốt nhè nhẹ để át mùi ẩm sợi, bà Bảy kể một khúc chuyện xưa “đêm mưa trong hiên đình”, tiếng kể đi mềm như giọt nước trượt mép lá, con Nụ ôm bảng ngủ gật hồi nào không hay, chữ “yên” trên bảng soi vào gò má nó, mưa tạnh mau như người ghé chơi một chút rồi về, để lại bờ mát lạnh, phên sạch bụi, dây néo uống đủ nước bèn nằm im, người trong chòi thở ra một tiếng giống như tiếng đất uống nước.
Chiều lên, trời nép mây để rót nắng lần cuối, đoàn bưu tá huyện ghé bờ trao một phong thư có dấu “Sở Văn hoá”, thư viết giọng lễ, khen gánh giữ “bản sắc”, mời tham gia một đề án “di sản đương đại”, yêu cầu gửi “hồ sơ kỹ thuật ánh - âm - mùi - an toàn”, đính kèm một mẫu form dài, Thu An lật từng trang, thấy mục nào cũng ghi riêng, đến phần “mùi”, chỗ “nồng độ”, “nguồn phát”, “tác nhân ảnh hưởng”, nó bật cười nhưng không mỉa, cười xong, cầm bút máy viết tay vào mục “ghi chú” một câu “mùi thả bằng tay đã qua nước, không đo bằng số, đo bằng hơi”, bà Bảy coi qua, gật, dặn chụp lại gửi mà giữ bản giấy trong rương, có dịp thì lên gặp trực tiếp người phụ trách, nói bằng mắt hơn bằng chữ, miễn người ta chịu ngồi yên năm phút trước khi hỏi.
Đến xẩm tối, bờ trở lại nhịp chậm, quán nước dì Tám bưng ra mấy chén chè sen non thủ từ ao đình gửi, ngọt dẻo mà mát hầu, Thu An ăn một muỗng thấy mùi ao đình lẫn đâu đây, nhớ tấm ảnh đen trắng ông nhà treo trong gian hậu, nhớ chữ “ừ” của người già, nhớ cánh liễu chạm mặt nước nghe như tiếng tay gõ nhẹ, nó thấy sợi chỉ từ ao đình kéo về bờ nhà ngày một rõ, ở giữa sợi chỉ ấy có mấy mối buộc mới: mối “chia” cho lớp yên, mối “ơn” cho người giữ hơi, mối “nhịn” cho lời mời rực rỡ, mối “rành” cho chỗ bớt ánh, mối “vừa” cho lượng mùi, mối “yên” cho nhịp thở của bờ, mối “nghe” cho tiếng rút nước dưới phên, mỗi mối nhìn như chẳng là gì mà buộc lại thành chiếc võng treo vừa vặn giữa hai cọc bờ - nước.
Đêm nghiêng hẳn, trăng rót một vệt mỏng như vỏ hến lên mặt sông, gió đồng dụi vào mái rơm thành một câu ru, người trong chòi thưa dần, chỉ còn mẹ con ngồi đối diện, giữa là ấm nước lá dứa cạn một nửa, bà Bảy bảo “mai con viết thư cám ơn hết thảy người tới, người ở, người đi, người giữ yên, người nói nhỏ, người uống chậm, người không chụp, người chụp rồi cất, người rủ lớp, người mang dây, người dời đường xe, người trả áo phao, người gỡ dây ẩu mà quay lại xin lỗi, con ghi tên từng người nghe, cái ‘ơn’ nhớ gọi đúng tên”, Thu An dạ, nghe một chữ “dạ” thấm dài như mưa rủ, nó mở sổ, viết ngay dòng đầu “gọi tên đúng chỗ”.
Khuya lặng, mặt nước như tấm vải thô đã phơi tới độ vừa, đom đóm lác đác, con Nụ ôm bảng ngủ sâu, môi còn mấp mấy chữ “xin”, Thu An kéo bấc đèn xuống còn chấm nhỏ, ngồi bậc tre, vẽ trong không khí một sợi chỉ mới nối từ tấm ảnh “yên có hình” treo ở góc tới phên, từ phên tới cái nút “tháo khẩn” mới dạy bọn nhỏ, từ nút “tháo khẩn” tới mái chèo Tín, từ mái chèo Tín tới vai anh Hai đang lăn tre, từ vai anh Hai tới ống mực tàu của ông Trọng, từ ống mực tàu tới ống giấy hoa văn cô My, từ ống giấy hoa văn tới tờ báo không giật của Phúc, từ tờ báo tới tấm bảng “Xin uống nước chậm” ở góc râm, từ tấm bảng ấy tới đôi bàn tay ai đó vặn nắp chai mà không kêu, sợi chỉ ấy căng vừa, không võng, không khua, như cung đàn căng đủ để nhấn mà không đứt, nó buộc thêm một mối nhỏ ở chỗ đường chỉ xanh trên khăn mẹ thêu, khấn hai chữ “đủ êm”, rồi nằm nghiêng trên ván, nghe tiếng nước rút nhẹ dưới phên như tiếng ai xếp thư vào hộp, lòng không rộn mà cũng không trống, chỉ đầy theo cách của cái chén cạn nửa, đủ để rót tiếp cho sáng mai.
Sáng nào đó của những ngày kế sắp đến, sẽ có lá thư từ trường thị trấn gửi xin lịch “Lớp yên”, sẽ có người từ thành phố gọi hỏi “có thể làm một đêm ở bờ nhưng bán vé tử tế”, sẽ có mưa trái qua lưng một chiều, sẽ có gió chướng thử cửa hiên, sẽ có đám nhỏ lớn thêm một chút biết tự buộc nút mà không cần nhắc, sẽ có người già thêm một chút nếp nhăn nhưng mắt vẫn ướt khi mùi lá dứa chạm, sẽ có những tấm ảnh không giật mà sống lâu, sẽ có những bài báo gọi tên đúng, sẽ có những cái “không” nói ra không làm ai chạnh, sẽ có những cái “ừ” rơi đúng độ, giữa mọi thứ đó, bờ vẫn là bờ, nước vẫn là nước, mạch bùn vẫn là mạch bùn, gánh rối vẫn mở đèn sau tiếng, thả mùi trước máy, buộc dây trước gió, cười trước giông, nhịn trước lời mời, ơn trước bước đi, chia trước nhu cầu, rành trước ham thích, vừa trước say tay, yên trước rộn ràng, nghe trước nói năng, để mỗi đêm kể trôi qua, người ngồi bờ rời chỗ đứng lên nhẹ như gỡ nút trượt, lưng thẳng như cọc tre mới vót, mắt dịu như mặt nước ròng, tay ấm như chén lá dứa, miệng thầm một chữ “đủ”, quay về giường chiếu của mình mà thấy con sông vẫn rót một tiếng rất khẽ qua kẽ nhà: “mai kể tiếp”.
Bình luận
Chưa có bình luận