Sáng Ngày hội mở ra bằng thứ nắng non như lớp tơ mỏng phủ lên mặt nước, khiến con sông Hậu nhìn giống một tấm lụa thợ khéo vừa ủi xong còn lưu lại hơi ấm của bàn tay, mùi lá dứa mẹ hãm từ tờ mờ đã trộn cùng hương bánh ít lá gai dì Tám bóc nóng, bay quanh gian chòi rối như một lời nhắn kín mà rõ, bảo rằng hôm nay người đông, tiếng nhiều, mắt sáng, nhưng bờ vẫn là bờ, nước vẫn là nước, mạch bùn vẫn nằm bên dưới như một người giữ cửa ít nói; Thu An mở then, đặt tay lên mép phên mới bó mối, đầu ngón tay sượt qua bề mặt mát mà chắc, nghe được trong xương một tiếng gật nhẹ, rồi rót hai chén nước còn vương hơi, đẩy một chén về phía mẹ như mọi ngày, chén còn lại đặt sát đường chỉ xanh để ấm ngấm vào từng sợi chỉ, coi như buộc thêm một mối nhỏ giữa việc sắp làm với lời dặn đã thuộc nằm lòng.
Từ đầu dãy dâm bụt, trưởng ấp đi dọc bờ với sấp giấy, giọng vừa đủ nghe, dặn những người đến sớm lối vào ở bên trái, lối ra bên phải, vạch phấn trắng đã kẻ lại hai lần cho rõ, tấm bảng “Xin ngồi yên” con Nụ viết được treo cao hơn nửa gang tay vì hôm nay trẻ con nhiều, dưới bảng là tờ giấy mới cô Ba nắn nót: “Xin nói nhỏ”, mực phấn hơi bột nhưng nét chữ dịu, đặt cạnh bốn chữ ông Trọng treo “rành - vừa - yên - nghe”, còn chữ “nhịn” ông dán ở mé cột phía trong như một cái neo cho những lúc tay ham, và chữ “ơn” nằm sát chân cột như một viên đá kê chân sào, bé nhỏ mà không thể thiếu; anh Hai dợm vác bó tre ra mép nước, Tín thử các nút dây lần cuối, chỗ nào nghe tiếng rít thì đổi sang dây chuối, chỗ nào thấy sợi căng quá thì lót thêm mảnh vải, mỗi động tác như đem hơi thở đặt đúng nơi của nó, không dư, không thiếu.
Từ bến chợ phía ngoài, đoàn tình nguyện trẻ mặc áo phông giản dị chở tới mấy thùng nước đóng chai mà người đại diện hôm trước đã hứa, họ không dựng lều, không đặt băng rôn, chỉ kê một chiếc bàn tre ở góc râm, treo tấm giấy viết bút lông “Xin uống nước chậm”, người qua khát thì ghé, tự rót, nói cám ơn đủ nghe, tụi nhỏ chạy ngang cũng biết hãm bước, tấm giấy mỏng mà giữ được nhịp bờ y hệt như cái chốt cửa lúc gió day; Phúc đến không muộn không sớm, treo tờ báo có góc ảnh vệt trăng lên vách chòi để ai đi qua cũng liếc thấy mà chùng giọng, anh bảo hôm nay anh đứng xa hơn mọi bữa, để mắt nhìn thay ống kính, chỉ lúc nào cần kể lại cho người chưa kịp tới thì mới bấm, vì có những khoảnh khắc nếu không ghi bằng yên thì ảnh đẹp mà lòng xáo, nghe xong, bà Bảy rót cho anh một chén nước lá dứa, nhón tay bỏ thêm hạt muối nhỏ như thói quen, miệng chỉ nói “uống chậm”, câu nói rơi vào buổi sáng như một cái neo nhẹ.
Đoàn truyền hình tỉnh ghé sớm hơn lịch một khắc, người cầm máy gật đầu chào rồi đứng im rất lâu nhìn mặt nước, người dẫn chương trình tập nói nhỏ, thử một câu rồi tự hạ giọng xuống, không đòi đèn, không xin cẩu, chỉ xin một góc đứng phía sau vạch phấn, thấy vậy, Thu An bấm vào sổ cái đánh dấu “giữ hơi”, dặn con Nụ hôm nay ngoài bảng “Xin ngồi yên” thì con nhớ chỉ tay vào tờ “Xin nói nhỏ” mỗi khi tiếng rộ lên, con bé nghiêm như người giữ nhịp trống, ôm bảng sát ngực, răng sún hé nụ cười nhỏ, mắt nhìn ngang bờ như đã thuộc việc mình hơn bất cứ trò chơi nào.
Đến gần giờ, ghe xuồng từ các ngả kéo về như đàn chim nước đổi bãi, có bà cụ bồng cháu, có ông già đội nón cối mòn vành, có mấy cô cậu học trò ôm cặp, có nhóm sinh viên hôm bữa mang theo sổ tay, có một vài người thành phố nghe danh mà xuống, dáng đi chưa kịp chậm nhưng mắt đã dịu vì mùi bùn ròng trộn mùi rạ non; trên sân gỗ dựng ở công viên, mấy anh kỹ thuật đã hạ hết đèn trắng theo đúng thoả thuận, chỉ chừa cho gánh một đường điện gọn, sẵn những ổ cắm bọc kín, chỗ máy quay của tỉnh đóng hai cọc nông như Thu An đánh dấu, trải miếng ván khô để chân máy không lún, lối đi đã rào dây mềm, phía bờ chợ, chiếc xe đua xe đạp hôm kia chạy thử qua, loa đã tắt, người tổ chức cúi đầu chào như nói lời xin lỗi muộn, bờ đáp lại bằng tiếng “ừ” không phát ra, nhưng rõ.
Thu An nhìn đồng hồ tay đơn giản của mình, không số, chỉ kim, khi kim chạm vào vị trí đã hẹn với nước, nó ra hiệu cho ông Sáu, dây đờn bắt vào hai dây như người đặt tay vào lòng câu cổ, cô Ba nhấc chập chõa, ngón tay áp vào mặt đồng đánh thức tiếng đồng như đánh thức người bạn lâu nay nghe kể mà chưa nói, đèn trên mái bật một nấc không hơn, ánh vàng mỡ gà phủ lên phên như lớp sương được sưởi, khói lá dứa thả đúng lượng đã ghi, bốc lên một đường mảnh rồi chịu lui, mùi ấy len tới tận băng ghế nơi người thành phố ngồi, luồn qua áo bà ba của mấy bà già, chạm vào cổ tay đứa bé, khiến đứa bé thôi ngọ nguậy, ngồi yên theo đúng chữ trên bảng, chính vào giây đó, Thu An biết nhịp đầu đã khớp, câu chuyện có thể đi mà không cần xin phép thêm.
Con cá đẽo mới qua ba lần thử bắt đầu vào nước như người học trò vào lớp đã đứng đúng ghế, lưng gỗ nhận hơi bằng sức tay anh Hai, không nhờ lừa ánh, đợt sóng thứ nhất lướt qua như bậc thềm thấp ở cửa nhà, đợt thứ hai nhận bằng một cú nén rất nhỏ ở vai, đợt thứ ba lại được mặt nước đỡ lên vì lớp bạc non phản lại, mùi lá dứa chấm xuống rồi ngưng, đèn giữ yên, tiếng đờn cò chạm nhẹ vào mép câu, chập chõa giữ nhịp thở của bờ, Phúc không bấm mà đặt tay lên dây đeo máy, như để nhắc mình về cái nặng ở vai, Khoa nghiêng đầu, mắt mở vừa đủ để ghi, còn ống kính để yên, vì có những lần chứng kiến, giữ tay không bật chính là cách bật đúng nhất; đoàn truyền hình đứng sau vạch phấn, người cầm mic thở ra chậm, nói một câu gọn “mùi của nước”, rồi im, người cầm máy nghiêng khung, giữ năm phút như giữ một hơi, đến khi tiếng chập chõa khóa chốt, họ cúi chào, lùi xa, để lại một khoảng khí mát như lối đi vừa quét.
Giữa chừng buổi sáng, lễ “tay nghề bờ bãi” bắt đầu ở góc đã chừa, tụi nhỏ thành phố lần đầu học buộc nút bằng dây chuối khô, bàn tay còn thơm mùi xà phòng, kéo nút chặt quá, Thu An khen “sức mạnh có”, rồi cười nhẹ dạy “nhả hơi”, bảo gỡ bằng hai ngón cái như đã hứa, đứa quê xóm dưới ngồi kế bên bèn chìa tay giúp, hai bàn tay, hai mùi khác nhau, gặp nhau trên một sợi dây, cô giáo thị trấn đứng xem rồi thở ra “học kiểu này nhớ lâu”, My bày cho bọn trẻ cắt một con chim giấy dầu, buộc sợi chỉ nhỏ, thổi một hơi nhẹ, chim bay trên nền vải thô hắt ánh, bọn trẻ ồ lên nhưng không kêu lớn, vì tấm bảng “Xin nói nhỏ” ở ngay bên, con Nụ đứng như lính gác cầu, mắt nghiêng một cái là ai cũng hiểu, ông Sáu kéo hai dây rất khẽ làm nền, chữ “ơn” đứng sát chân cột nghe như một cái gật.
Xế trưa, gió lùa qua đám dừa nước mang theo mùi nắng chín, đoàn khách thành phố đã bớt, người làng ở lại nhiều hơn, có cô giáo tỉnh xin gặp riêng bà Bảy, giọng đằm, bảo muốn đưa lớp văn hoá dân gian xuống làng ở hai ngày để học nhịp, không học “múa tả”, mà học “múa thật”, bà Bảy cười, bảo nhà chật, nhưng chòi rộng nếu biết ngồi yên, mời xuống, miễn vạch phấn không bước, mùi khói không nín, tiếng nhỏ không rơi, cô giáo gật, cái gật như đặt một viên đá làm cọc cho chuyến đi sắp tới; đang nói dở, chú Bảy Còng và ông Tám Rịa gặp nhau ở mép bờ, hai người sượng từng giây vì cái bờ ranh cũ, rồi không đợi ai xúi, cả hai cùng nhắc chuyện dời xuồng đêm rằm, cùng cười cứng, cùng nói “bữa sau tui dời trước nửa bến cho rộng”, câu nói rơi gọn như trái mắm già rụng đúng mùa, bờ nghe mà mát.
Buổi chiều, nắng rút, bóng bần vẽ lên mặt sông những vệt mảnh, đoàn sinh viên kiến trúc trở lại, lần này không hỏi về ánh, không hỏi về hiệu ứng, mà hỏi về “vị trí của mùi trong cấu trúc”, câu hỏi nghe lạ tai mà làm Thu An thích, nó trả lời bằng cách cho từng đứa cầm một nhúm lá dứa còn ẩm sau phơi, đứng ba vị trí khác nhau trên bờ, thả cùng lúc, đo xem mùi chạm vào chỗ ngồi người xem ở phút thứ mấy, ghi bằng tay, không ghi bằng điện thoại, đứa nào ghi “sớm” phải đổi chỗ, đứa nào ghi “muộn” phải áo lại, để lần sau biết đi đâu mà thả, ông Trọng đứng gần đó, mở ống mực tàu, viết trên tấm giấy dó một hàng chữ ngắn “mùi là tiếng không nói”, rồi treo lên mái phên như người treo một áng mây mỏng, My nhìn, cười im, bàn tay dính màu dầu bóng, mùi sơn ta gặp mùi mực tàu nghe như hai người già mới quen mà hợp tính.
Ngay trước hoàng hôn, một chuyện nhỏ xảy ra mà về sau ai cũng nhớ như một dấu chỉ, ông cụ ở xóm lụp xụp bên kia bờ dắt theo cháu trai chừng tám tuổi, đứa bé gầy, mắt sâu, tay ôm một con cá lá dừa tự bện, đến xin được thả thử trong chậu nước của lớp, Thu An cười, bưng chậu ra, nâng con cá lá dừa vào tay nó, dặn kéo theo hơi chứ đừng kéo theo mạnh, nó làm vụng, nước văng ra mép, cụ già chép miệng, Thu An không vội la, đổi chỗ con cá, hạ ánh trong chòi nửa nấc, cho ánh phản từ mặt vải chứ không từ mái, bảo đứa bé thử lại, lần này lưng cá đỡ nước trúng, vảy lá dứa ươn ướt trong chiều, người bờ không vỗ tay, chỉ thở ra “ừ”, đứa bé rướn miệng cười, rồi cúi đầu ôm con cá, ông cụ xoa đầu, mắt ươn, nói “hồi nhỏ tao cũng bơi kiểu này”, câu nói quệt qua mặt nước để lại một vệt mỏng như sợi chỉ.
Tới giờ diễn chính, trời đã đứng về phía đêm, trăng như cái vỏ hến mài, không tròn mà đủ dịu, bờ người chật nhưng không dồn, đèn dầu hàng hiên các nhà quanh gần đồng loạt hạ bấc như lời hẹn không cần nhắc, đoàn truyền hình lùi ra xa, nhóm nước đóng chai ngồi im ở góc râm, con Nụ ôm bảng như ôm một ông thầy khó tính mà thương, trưởng ấp với mấy anh dân quân đứng chốt nơi lối ra, nắm tay ra hiệu như vũ công dân dã, tiếng chập chõa mở màn không còn lạ, nhưng hôm nay có thêm lớp lắng của chờ đợi dài, dây đờn của ông Sáu như một sợi dây thừng nhỏ bắc từ bờ này qua bờ kia, con cá vào nước lần nữa, không làm động một cọng cỏ, ánh đi sau tiếng đúng câu trên vách, mùi lá dứa lướt một đường, khói nhang từ đâu đó bên nhà ai sà tới, cả hai bắt tay nhau như hai họ nhàn rỗi gặp nhau ở ngã ba, khúc “Cá hóa Rồng” đến đoạn nghỉ giữa đợt thứ tư, mặt nước đỡ lưng cá bằng lớp bạc non y như bản ráp hôm qua, nhưng hôm nay, từ phía xa, một cơn gió rất mềm kéo qua, đưa theo mùi lúa thơm, y như bếp nhà ai vừa mở nắp nồi cơm, Thu An đang đặt tay trên công tắc bỗng rút ra, để cho mùi ấy đi hết vòng, để cho người bờ nhìn nhau rồi mỉm cười không thành tiếng, để cho con cá ngóc đầu không nhờ ánh, mà nhờ đúng giây ấy gió nâng, nước nâng, tiếng nâng.
Tràng vỗ tay không đến như búa, mà đến như mưa đầu mùa rơi đều trên mặt ruộng, người truyền hình cúi chào một lần nữa rồi rút gọn, để lại năm phút trong máy như một nắm hạt giống, mai gieo sẽ lên, nhưng không ồn, nhóm sinh viên kiến trúc chép được mấy trang ghi chú mùi với vị trí thả, Phúc bước tới, đặt lên bàn thờ Tổ một tấm ảnh in nhanh, không trăng, không đèn, chỉ là một khoảng yên có hình bóng người ngồi thẳng lưng, dưới ảnh anh viết tay “yên có hình”, bà Bảy nhìn qua, gật, tay vuốt đường chỉ xanh, cười phơ phơ như người vừa vá xong một chỗ rơm mái đúng mũi kim.
Sau màn chính, lớp “tay nghề bờ bãi” mở thêm một vòng cho đám nhỏ còn ngồi lại, Thu An dạy thêm một nút “tháo khẩn”, bảo hễ nghe tiếng “rút” thì tay này kéo, tay kia đỡ, mắt tìm đường ra, không chen, không giành, không la, một đứa bé trạc tuổi con Nụ hỏi vì sao con cá không bay thẳng lên trời như pháo, Thu An cười, bảo cá thích nước, không thích lên trời, rồng cũng có ngày nhớ nước, nhớ mùi bùn, nhớ tiếng chập chõa, bởi vậy mới hóa ngay ở mặt nước, không hóa trên mây, câu trả lời nghe có vẻ như chuyện cổ, nhưng mấy bà mẹ đứng sau khẽ gật, vì ai không nhớ cái chỗ mình ngồi mà ăn cơm chấm nước mắm đầu mùa.
Khi người ta tản bớt, trời vào khuya, gió đồng rì rào như ai kể chuyện ngoài hiên, bọn trẻ mệt rũ mà không buồn ngủ, con Nụ gối đầu lên bảng, đôi mắt nhắm mà môi còn mấp máy “xin ngồi yên”, Khoa xếp máy, đến gần nói khẽ với Thu An rằng anh muốn cắt một bản phim ngắn chỉ có mấy động tác, một vệt mùi, một khoảng yên, một tiếng đờn, một bóng người không rõ mặt, đặt tên bằng hai chữ “đủ rồi”, lên mạng có thể không ai chia, nhưng ai coi hết thì sẽ thở ra dài, Thu An cười, bảo làm đi, nhớ để mùi đi trước máy, Khoa gật, lùi ra, đứng ngoài phên một lúc rất lâu như để ngửi cho đủ.
Những người cuối cùng rút khỏi bờ bằng những bước không gây tiếng, bờ trả lại khoảng trống vừa đủ cho gió luồn, anh Hai hạ phên, Tín tháo dây, My gỡ mảng hoa văn chưa dán, lau bề mặt phên bằng khăn ấm vắt kỹ để mùi lá dứa còn thấm, ông Sáu xếp đờn, thả dây cho tơ nghỉ, cô Ba lau mặt đồng bằng miếng vải mềm, Phúc nhét tấm ảnh “yên có hình” lên kệ, ông Trọng thu ống mực, nhìn lên bốn chữ treo ở cột, rồi chạm vào chữ “ơn” ở chân như chạm vào đầu một đứa nhỏ, bà Bảy đếm lại áo phao, coi kỹ từng móc, bàn tay khô mà cử động mềm như lá dứa còn hơi, Thu An mở sổ, viết vào trang “Ngày hội” những dòng cô đọng mà dài, ghi giờ gió ghé, ghi vị trí mùi chạm, ghi cú rút tay khỏi công tắc để nhường nếp gió, ghi tiếng “ừ” ở chỗ bé thả cá, ghi mắt người truyền hình cúi thấp, ghi tờ “Xin uống nước chậm” hết hàng chữ nhưng chưa hết nước, ghi chữ “đủ” nổi ở ngực như một cái mộc đóng mềm.
Khuya thiệt khuya, khi chỉ còn tiếng mái chèo của ghe kiểm tra bờ lướt một đường ngắn, khi đom đóm gom lửa ở mé ruộng, khi mùi bùn ròng thấm xuống đáy như người kéo chăn lên ngực, Thu An ngồi tựa cột, bàn tay khép cuốn sổ lại, ngón trỏ vẫn quen vẽ một sợi chỉ trong không khí, sợi chỉ hôm nay nối từ tấm bảng “Xin nói nhỏ” tới hàng ghế cuối, từ hàng ghế cuối tới mũi ghe chở nước, từ mũi ghe tới vai anh Hai, từ vai anh Hai tới ngón tay Tín, từ ngón tay Tín tới đầu bút máy của ông Trọng, từ đầu bút máy tới ống kính đã tắt của Khoa, từ ống kính đã tắt tới tờ báo không giật của Phúc, từ tờ báo tới đường chỉ xanh trên khăn mẹ thêu, sợi chỉ ấy như một mạch bùn vô hình, nằm dưới mọi tiếng vỗ tay, dưới mọi ánh nhìn, dưới mọi mùi, làm nền cho tất cả, khiến mọi việc cùng hợp thành một câu chuyện không cần đẩy, chỉ cần dìu.
Bà Bảy bước ra, tay ôm chiếc khăn vừa phơi, đặt lên bàn thờ Tổ, châm nén nhang nhỏ, khấn vắn tắt “cám ơn”, tiếng cám ơn không cao, chẳng kéo chữ, nhưng đi thẳng như sợi chỉ, rồi bà quay sang con gái, mắt đen sâu mà sáng, bảo “bữa nay bờ không lấn, nước không cãi, người không qua tiếng, con cột thêm mối ‘chia’ coi”, Thu An hỏi chia gì, bà cười, đáp chia chỗ ngồi cho người chưa tới, chia cách nghe cho người đã vội, chia mùi cho người xa, chia chữ cho người trẻ, chia việc cho người ham, chia yên cho người bức, chia tay cho người lỡ bước, nói xong bà rót nửa chén nước lá dứa còn ấm, đẩy về phía con, bảo uống chậm, rồi ngủ sớm, mai dọn bờ, mai tới ao đình trả lễ, mai viết thư cám ơn đoàn truyền hình đã “giữ hơi”, mai gửi tấm ảnh cho cụ già bên kia bờ có cháu thả cá, mai nhắn người đại diện nước đóng chai rằng bảng “Xin uống nước chậm” có thể để lại lâu, vì lâu đôi khi mới thấm.
Đêm đặt xuống một lớp mỏng cuối cùng như chiếc mền nhẹ, Thu An kéo bấc đèn hạ xuống một chấm, nhìn ra mặt sông nơi vệt trăng nhoè, cảm thấy trong lồng ngực không phải một ngọn lửa, cũng không phải một cơn sóng, mà là một vòng nước tròn đều vừa đủ cho một con cá gỗ xoay người không chạm mép, vừa đủ cho một bàn tay đặt lên ngực mà cảm tiếng tim không vấp, vừa đủ cho một câu “đủ rồi” thầm thĩ, nó gối đầu lên tập sổ, tay vẫn vẽ sợi chỉ, nghĩ tới những ngày kế tiếp khi thành phố lại mời diễn có vé, khi trường học lại gửi thư xin lịch, khi trời rủ cơn mưa trái, khi gió chướng đổi giọng, nghĩ tới cách nói “không” cho đúng độ, cách nói “ừ” cho đúng chỗ, rồi thiếp đi trong một mùi lá dứa loãng như hơi thở của nước, giấc ngủ có hình bờ, có tiếng chập chõa, có vệt bạc non ở đợt sóng thứ ba, có bóng một đứa bé ôm con cá lá dừa, có cái gật im của người già, có chữ “ơn” nằm sát chân cột, có những mối dây đã cột đủ chặt để mai kể tiếp, chậm hơn một nhịp, bền hơn một chút, yên hơn một khoảng, rành thêm một câu.
Bình luận
Chưa có bình luận