Sáng hôm đó trời trong như lòng chén mới rửa, mặt sông phẳng tới mức nếu thả một sợi tóc xuống chắc nó sẽ nằm nguyên ở đó cho tới khi nắng đủ ấm để nhích, mùi lá dứa mẹ hãm từ rạng đông quyện với mùi bùn ròng vừa rút làm gian chòi rối như một cái bếp được phủ lên bằng lớp hơi êm, Thu An mở then, đưa tay chạm mép phên đã thay hai thanh tre mới, đầu ngón tay lướt qua chỗ mối vừa bó, cảm thấy bề mặt mát và chặt như da ở cổ tay người vừa hết sốt, lòng yên thêm một chút, rồi chậm rãi rót hai chén nước ấm, một chén đẩy về phía mẹ, chén còn lại đặt sát đường chỉ xanh trên khăn như mọi ngày, vì nó tin rằng những nghi thức nhỏ lặp đi lặp lại trước mỗi bữa kể là cách để buộc sợi chỉ vô hình giữa người với nước thêm một mối nữa.
Tin của Phòng văn hóa gửi đến từ sớm báo rằng đoàn truyền hình tỉnh sẽ về vào chiều kế, quay năm phút tư liệu cho bản tin Ngày hội, yêu cầu giản dị, không đèn phụ, không cẩu máy, micro gọn, người quay đứng sau vạch phấn, người dẫn nói nhỏ, ai nấy nghe mà thở ra như vừa đặt xuống bờ một gánh nếp, bởi quay thì quay, nhưng bờ vẫn là bờ, mùi vẫn là mùi, tiếng vẫn là tiếng, ánh vẫn là ánh của nhà chứ không phải của xe, bà Bảy gật, dặn Thu An khoanh thêm một lối đi hẹp để đoàn di chuyển không cấn vào mép nước, dặn Tín chôn lại hai cọc nông cho máy đặt tạm chân, dặn anh Hai xếp sẵn mấy tấm ván khô làm đường, dặn cô Ba viết một tờ giấy lớn treo đầu bờ “xin nói nhỏ”, rồi bà trở vô bếp, vốc một nhúm muối rắc nhẹ vào ấm nước như thói quen mấy chục năm, bảo thêm một chút mặn để cái ngọt rõ mặt, nghe xong con gái cười, thấy đúng tới từng hạt.
Trưa đứng bóng, Khoa vác máy đến nhưng không mở nắp, bảo hôm nay xin “ghi yên”, nghĩa là ghi bằng mắt trước, bằng mũi sau, bằng da tay sau nữa, nếu còn chỗ thì mới tới bằng ống kính, anh kể thầy hướng dẫn trên thành phố vẫn giục đưa thêm những cú lia ở cao độ để “nâng cảm xúc”, anh đáp bằng một câu rất ngắn rằng cảm xúc ở đây không thích bị nâng, nó thích được đặt xuống, thậm chí có khi còn thích được dằn thêm bằng một nút dây vừa mới buộc, bà Bảy nghe, không khen cũng không chê, chỉ rót thêm cho Khoa một chén nước mỏng, đẩy về phía anh như đẩy một tiếng “ừ” không phát ra thành lời, tiếng “ừ” mà mấy bữa trước Thu An đã nhặt được ở ao đình, đem về cất chung với mùi lá dứa trên chạn.
Phúc ghé ngay sau, cặp máy ảnh đeo chéo, mái tóc còn vương sương, anh treo lên vách tờ báo có bài ngắn ngày qua về buổi diễn ở ao đình, góc ảnh là một vệt trăng nhìn như cái vỏ hến, dưới ảnh vẫn câu chữ nhỏ “đèn đi sau tiếng”, anh kể vừa bị một bạn đồng nghiệp chọc là “giật tít ít quá người ta lướt”, anh cười, nói lướt cho hết thì cũng tới lúc phải dừng lại ở đâu đó để thở, mà muốn thở thì phải có chỗ yên, anh gõ ngón tay lên tấm phên mới thay, bảo yên của bờ này không phải im thin thít, yên của bờ này là thứ yên làm người ta thấy được mặt nhau, nghe tới đây, con Nụ ôm bảng “Xin ngồi yên” chạy ra, giơ cao như giơ trống lệnh, cặp răng sún lấp lánh, bà Bảy xoa đầu nó, dặn chiều nay viết thêm dưới bảng một dòng nữa nhỏ thôi “xin nói nhỏ”, chữ nhỏ nhưng ý không nhỏ.
Đến xế, đoàn sinh viên kiến trúc hẹn bù giờ sau hôm kẹt phà kéo tới, mắt còn quầng mệt mà tiếng chào rộn, Thu An không cho đứng vòng quanh phên như đứng coi hội, nó bảo đi chân đất ra mép nước, đặt mu bàn tay sát mặt sông, nhắm mắt mười nhịp, đếm gió, mở mắt ra nhìn một điểm nước trong hai phút, ghi xuống xem nó đổi được mấy sắc, rồi mới học cách kê tấm ván sao cho nước không bị làm phiền, mới học cách cột sợi dây sao cho tiếng “rít” không bay lên như tiếng dao, mới học cách chèn vải vào gốc liễu để da cây không bị xước bởi dây người, ông Trọng đứng dưới bóng dừa nước, nhìn cảnh ấy mà gật nhẹ, ông mở ống mực tàu, viết thêm một chữ nhỏ con dưới bốn chữ treo ở cột, chữ ấy đặt ở chân, chữ “ơn”, ơn ở đây không phải hộp quà, không phải phong bì, ơn ở đây là nhớ gọi tên đúng chỗ đứng của nước, nhớ nói nhỏ trước mặt mùi, nhớ đến sớm để nghe bờ thở, nhớ đi nhẹ khi bùn còn mềm, nhớ cầm tay trẻ con dạy nó gỡ nút trước khi dạy nó buộc, Thu An đọc, khẽ chạm tay vào nét mực còn ướt mà không làm lem, lòng thấy sợi chỉ trong óc vừa được buộc thêm một mối nữa.
Lúc trời vừa ngả sang một màu mật mỏng, trưởng ấp chạy qua báo đoàn đua xe đạp phong trào sẽ đổi lộ trình, không càn qua bờ đúng giờ tổng duyệt nữa, nhưng loa kéo dọc đường vẫn sẽ ồn chừng hai mươi phút, bà Bảy nói vậy thì dời xuống sau hai mươi phút, để người ta đi cho hết khí, rồi mình kể cho đủ hơi, chứ hai hơi chồng lên nhau, ai cũng hụt, cả nhà nghe, chỉnh lịch, không ai than, anh Hai chuyển mấy tấm phên ra hiên, Tín cắm lại cọc ở mé dưới, cô Ba viết thêm bảng “xin nói nhỏ”, My gỡ những mảng hoa văn chưa dán, đặt lên bàn chờ, ông Sáu thay dây đờn mảnh hơn thường một chút để tiếng không dày vào lúc bờ còn nhuồn.
Đúng khi cả nhà đang rải việc ra như rải hạt giống xuống luống, một chiếc xe bán tải sơn màu xanh trời lại dừng trước hàng dâm bụt, người đại diện của nhãn nước đóng chai hôm kia quay về, nhưng lần này đi một mình, áo sơ mi bớt là lượt, tay không cầm túi quà, anh đứng ngoài bờ, không bước vào, giọng hạ thấp, bảo tối qua đọc bài báo, nghe mùi lá dứa trong câu chữ mà nhớ nhà, ngày nhỏ anh cũng ngồi bờ sông với ngoại, thấy đom đóm, ngửi gió, không biết từ lúc nào quên mất, anh nói xin phép rút lại đề nghị in logo, xin giữ đúng nghĩa “đồng hành”, nghĩa là để dành nước đóng chai cho đội tình nguyện khuya, xin một góc nhỏ treo tấm bảng giấy “Xin uống nước chậm”, ai khát thì tới nhận, không cần chụp hình, cũng không cần nhắc tên, chỉ muốn góp một thứ lặng, bà Bảy nghe, nhìn lâu, rồi gật, mời anh vào nhà, rót chén nước lá dứa, bảo uống chậm.
Buổi chiều trôi đi trong cái nhịp của khúc lặng trước hội, thứ nhịp làm người ta nhìn kỹ từng việc nhỏ đến mức tay tự nhiên chậm lại, hơi thở dài hơn, mắt mở ra mà không đảo, Thu An dẫn lớp con nít thử “Cá hóa Rồng” bằng vật liệu rẻ, mỗi đứa một con cá lá dừa bơi qua một cái chậu nước, nó dạy bọn nhỏ không búng cá vọt lên, mà lướt qua đợt sóng bằng cổ tay, khi nào cảm thấy mặt nước như một tấm lụa hơi căng thì nhấn nhẹ, khi nào thấy nước mềm như vạt áo vừa phơi thì buông, bọn nhỏ cười rúc rích, đứa nào tay khỏe quá là nó nắm ngón cái cho nhả bớt, đứa nào tay yếu quá là nó khen “biết nhịn”, miệng nói mà mắt liếc ra mép bờ coi gió đổi chưa, vì nó biết mọi bài học trong chòi đều có một cái bóng ngoài sông.
Hoàng hôn buông thõng xuống, bầy đom đóm từ ruộng kéo về mé cỏ, bờ bật đèn dầu, khói lá dứa thử một hơi rồi tắt để dành, tổng duyệt muộn hơn thường hai mươi phút như lời đã dặn, người làng ngồi thưa mà đều, không nôn, đoàn truyền hình chưa tới, Phúc đứng xa, không giơ máy, Khoa ngồi thấp, ôm hộp, My ôm ống giấy, ông Trọng ngồi dưới cột có dán chữ “ơn”, tay rờ nhẹ mạch gỗ, Thu An tiến tới công tắc, hạ bật lên như người chào, ánh đi sau tiếng đúng lời ghi, dây đờn ôm lấy mặt nước như khăn choàng, chập chõa mở cánh cổng nhỏ, con cá lướt vào, vượt đợt thứ nhất như người bước qua bậc cửa không đụng chân, vượt đợt thứ hai như người kéo cửa lá xách cho gió vô, tới đợt thứ ba, mặt nước tự nó đỡ lấy lưng cá bằng một lớp bạc non, mùi lá dứa thả xuống như một dấu chấm tròn, rồi ngừng, người ngồi bờ nhìn nhau, mắt nheo lại như gật, không ai nói.
Giữa lúc ấy, đoàn truyền hình tới, nhưng họ dừng ngoài vạch phấn, người cầm máy không bật đèn, người dẫn nhỏ giọng, đứng nghiêng để nhường, năm phút như một hơi thở dài, họ ghi một đoạn không đủ để khoe, nhưng vừa đủ để nhớ, rồi rút, chào nhỏ, không để lại dấu, chỉ để lại chỗ cỏ hơi dẹp, chừng như bờ vừa có người đi qua mà không làm nước phải đổi giọng, bà Bảy nhìn theo, miệng mỉm cười, bảo “được”, một chữ thôi mà ai cũng nghe như một cái chốt cài vào bản lề.
Tổng duyệt khép lại, vệt trăng mỏng leo lên đọt bần, con nước đổi điệu, tiếng ếch ngoài đồng nối nhau như những dấu phẩy đặt đúng chỗ trong một câu rất dài, mọi người thu dọn mà không rầm, anh Hai quấn dây, Tín phủ bạt, cô Ba lau mặt đồng, ông Sáu thả lỏng dây đờn, My đặt hoa văn chưa dán vào ống, Khoa đóng nắp hộp, Phúc xếp máy vào túi, ông Trọng thổi khô nét mực ở góc cột, bà Bảy gấp khăn, đặt lại lên bàn thờ Tổ, Thu An ngồi xuống bậc tre, mở sổ, viết vào cột “ghi chú hội” mấy dòng mới: “đoàn quay giữ hơi”, “nước đóng chai xin uống chậm”, “đua xe dời đường”, “bảng nói nhỏ treo cao”, “mùi thả sớm hơn một nấc”, “ánh giữ yên ở đợt ba”, chữ nào cũng nằm vừa mặt giấy như mặt nước yên vừa mắt, không tràn, không hụt.
Đêm tràn vô, gió đồng thao thiết mà không quật, mùi lúa mới ẩn dưới mùi bùn, chòi rối chỉ còn lại mẹ con ngồi đối diện, giữa hai người là ấm nước lá dứa vơi nửa, bà Bảy nhìn con gái lâu hơn thường, mắt đen như hai giếng nước sâu, bà bảo “mai đông đó con”, câu nói tưởng như báo, mà thật ra là nhắc, rằng đông thì tâm dễ lơi, tay dễ cao, mắt dễ sáng quá, cần buộc thêm một mối “nhịn” vào cổ tay, cần cột thêm một mối “ơn” ở mép khăn, cần nhắc “đèn đi sau tiếng” cho người tới giúp, cần dặn “xin nói nhỏ” cho người chưa quen, cần nhớ “bờ có mạch”, đừng đi lấn, Thu An gật, mà không chỉ gật bằng đầu, nó gật bằng tay khi khép sổ, gật bằng ngực khi thở dài, gật bằng mắt khi nhìn ra sông thấy bầy đom đóm đang lùi lại phía ruộng, như biết đường cho câu chuyện mai.
Tới khuya, khi tiếng ghe chài cuối cùng đã khua một vệt ngắn trên mặt nước rồi tắt, khi con Nụ ngủ say ôm bảng như ôm gối, khi anh Hai trở về nhà vác bó tre để sát mái, khi Tín buộc thuyền vào chân sào bằng nút mới, khi Khoa kê hộp máy ở một góc khô, khi Phúc nhắn “mai anh chỉ đứng xa”, khi My úp ống giấy vào rổ để lỡ mưa không ẩm, khi ông Trọng cột ống mực tàu vào thành ghế cho khỏi lăn, thì Thu An khép cửa, thắp một nén nhang nhỏ, đặt trước mép khăn, khấn vắn tắt hai chữ “đủ yên”, rồi tắt đèn, chỉ để lại một đốm mờ như ánh của con đom đóm lạc bầy, nó ngồi xuống bậc tre, vẽ trong không khí một sợi chỉ nối từ tấm bảng “Xin nói nhỏ” mới treo tới công tắc đèn, từ công tắc đèn tới mép phên, từ mép phên tới lưng cá gỗ, từ lưng cá gỗ tới tay anh Hai, từ tay anh Hai tới mái chèo Tín, từ mái chèo Tín tới mũi ghe Năm Tỵ, từ mũi ghe Năm Tỵ tới mắt người già hàng ba, từ mắt người già tới rốn nước, từ rốn nước tới đường chỉ xanh trên khăn mẹ thêu, sợi chỉ ấy mỗi ngày được nó buộc thêm một mối nhỏ, không kêu, không khoe, không tụt, để sáng mai khi mặt trời chạm đọt bần, khi giọng loa ban tổ chức còn lạc ở đầu bến, khi tiếng bước chân dồn về bờ, khi mùi bánh lá gai dì Tám mới bóc bốc lên hòa vào mùi nước, nó có thể mở cửa, bưng ấm, rót hai chén, đặt một chén lên đường chỉ xanh, cầm một chén ra hiên đưa cho mẹ, nhìn xuống mặt sông, mỉm cười rất khẽ, nói bằng giọng vừa đủ cho nước nghe: “Hôm nay mình kể chậm.”
Bình luận
Chưa có bình luận