Chương 11: Sương sớm trên sợi chỉ



Rạng sáng sau chuyến đi ao đình, một luồng sương mỏng từ mặt sông bò lên bờ như một dải lụa buộc hờ quanh cổ người mà không siết, khiến những mái rơm, hàng dâm bụt, tấm phên, cả chiếc bảng phấn con Nụ ôm ngủ gật đêm qua đều phủ một nước óng nhè nhẹ, mùi bùn dịu như cháo gạo rang, mùi lá dứa trong nồi nhỏ mẹ hãm từ khuya bốc lên dẻo dẻo, ôm lấy gian chòi rối như một cái chăn vừa vắt tay, Thu An xoay then cửa, bước ra sàn, đặt tay lên mép phên nơi vết nứt đã trám, cảm thấy chỗ ấy không còn rát mà hơi mát, như da người vừa qua cơn sốt, nó rót hai chén nước, một chén đưa cho mẹ, chén còn lại đặt sát đường chỉ xanh trên khăn để hơi ấm thấm vào vải, tự nhủ mỗi sớm cứ khởi động bằng nghi thức nhỏ như vậy thì ngày sẽ đi vừa, như câu đờn lên đúng cung đã hẹn.

Tin của Phòng văn hóa huyện báo xuống lúc nắng còn chưa lọt hẳn qua kẽ dừa nước rằng Ngày hội Sông Nước bổ sung thêm một khu trải nghiệm “tay nghề bờ bãi”, xin gánh phụ trách một góc dạy buộc nút, gỡ nút, kéo rối lá, thả lá dứa cho đúng lửa, đếm nhịp chập chõa theo hơi, quy định thì vẫn như cũ, an toàn đứng trên hết, không loa lớn, không đèn trắng soi ngang mặt nước, nội dung thêm thì nhà cứ điều khiển, nghe xong, bà Bảy chỉ bảo “ghi vô sổ”, rồi nhón một hạt muối bỏ vào ấm nước lá dứa như thói quen xưa cũ, bảo có khi thêm một chút mặn, cái ngọt sẽ rõ, câu nói rơi xuống nghe như tiếng sương chạm mái, nhẹ, mà thấm.

Đến giữa buổi, Phúc ôm tay nải mỏng ghé, trong tay là bài báo đã lên trang in sáng nay, tít không dài, chữ không chen, một tấm ảnh đêm ao đình không đẩy đèn, chỉ một vệt trăng lướt mái, ở góc dưới vẫn dòng chữ nhỏ anh tự giữ như một lời thề “đèn đi sau tiếng”, anh kể lũ bạn ở tòa soạn bảo sao không “làm” cho bốc một chút, ảnh cười đáp “nước chưa dặn”, rồi tự tay dán tờ báo lên vách tre, chỗ bọn nhỏ hay ngồi nhìn chữ, bảo để tụi nhỏ thấy chữ trên giấy cũng có thể hiền, không phải chữ nào cũng giành vỉa hè, Thu An nhìn tấm ảnh, thấy điểm sáng nằm đúng nơi cần, một loáng nghĩ đến Khoa và chiếc máy cất im trong hộp, tới mười giây khung đứng như một con chuồn chuồn biết nhịn, rồi thấy ở sau gáy mát như gió qua.

Khoa đến sau, không vội mở máy, đặt hộp xuống chỗ khô, bảo muốn ngồi một bữa đầy xem sương lên rút ra sao, nắng ướp phên thế nào, bùn chuyển mùi lúc trưa ra sao, tiếng chập chõa tụ rồi tản ra thế nào trong buổi chiều, để đoạn phim dài hơn mười giây, nếu có, sẽ đi đúng mạch nước, chứ không đi mạch người vội, anh còn nói thầy ở trường đề nghị đưa thêm footage flycam đến lễ hội để tạo “điểm nhấn”, anh xin phép không, vì ở đây trăng làm đạo cụ đủ rồi, tiếng ếch đủ rồi, tiếng dép lẹp kẹp lúc dợm về đủ rồi, nghe đến chữ “không” ấy, bà Bảy ngước lên, không khen, không gật, chỉ rót thêm chén nước, đẩy nhẹ về phía Khoa, như đẩy một lời cảm ơn lặng.

Khách làng bên nghe tiếng ao đình có rối, ghe nhỏ ghe lớn ghé bờ nhà nhiều hơn mấy bữa, có người già mang theo gói trầm vụn xin mượn lửa thắp, nói muốn gửi lại chút mùi, có cô giáo tỉnh khen lũ trẻ nơi đây biết ngồi yên hiếm có, xin bí quyết, bà Bảy cười khẽ bảo bí quyết nằm ở bảng phấn con Nụ ôm, ở việc người lớn ngồi sau lưng bọn nhỏ mà không giục, ở việc tắt đèn đúng lúc, ở mùi lá dứa chỉ còn như hơi, chứ không nằm ở loa, cũng không nằm ở hiệu ứng, còn bí quyết lớn nhất là bờ người biết thở, biết dìu nhau qua lúc gió cong, nói xong, bà gọi tụi nhỏ bày lớp chiều nay, mỗi đứa một dây, một chiếc lá, một đôi mắt, một hơi thở.

Buổi học chiều mở ra bằng cách Thu An bảo tụi nhỏ đặt mu bàn tay cách mặt nước một gang, nhắm mắt chừng mười nhịp tim, đếm xem gió đổi mấy lần, rồi mới học nút, mới học kéo, mới học thả lá dứa, đứa nào vội, nó đưa tay giữ cổ tay cho chậm lại, đứa nào run, nó cho ôm bảng, chữ phấn như cái cột tinh thần, Tín ngồi mép bờ cười nửa miệng vì bàn chân trái vẫn ngâm nước muối, anh Hai lui cui ráp lại hai thanh tre mới, tiếng tre chạm nẹp kêu một thứ âm nhỏ như tiếng cá thở gần mặt, cô My lọ mọ trong góc chòi cắt mấy mảng hoa văn “mồ hôi vảy cá”, tỉ mỉ như con gái khâu gấu áo cho ngoại, ông Sáu lau dây đờn bằng vạt khăn ấm, rít nhẹ để sợi tơ mềm, mỗi việc nhỏ kéo nhau thành một cái không khí như bột gạo nở đều tay, không khối nào nổi trội, không khối nào quánh sát, tất cả quyện nhau vừa khít.

Đúng lúc ấy, một chiếc xe bán tải đỗ ở đầu dâm bụt, hai người đàn ông áo sơ mi là lượt bước xuống, tay cầm túi giấy in logo một nhãn nước đóng chai, họ tự giới thiệu là đại diện marketing, nghe tiếng rối nước trên sông có tiếng, công ty muốn “đồng hành truyền cảm hứng”, tặng một ngàn chai nước cho Ngày hội, in logo ở góc phên, dựng một back chụp hình “check-in”, nếu gánh thuận thêm một đoạn giới thiệu wellness, họ hứa tài trợ tiền lợp mái mới, thay toàn bộ dây néo, mua áo phao, còn nếu quay clip chung, hãng sẽ chạy quảng cáo đẩy tít lên, lời nói tuôn như nước vỡ bờ, bóng chữ “đồng hành” bóng loáng như vảy cá giả, Thu An mời vào chòi, rót nước lá dứa, hỏi logo in ở đâu, kích thước thế nào, thời gian dựng back bao lâu, họ đáp lưu loát, nói mấy chữ “nhận diện” nghe mịn như bơ, bà Bảy ngồi nghe tới chữ “in phên” thì đặt chén xuống, giọng không cao, chậm như dợm một bước qua bờ sình, bảo phên là da của nhà, da không đeo bảng hiệu, quý tình thì cám ơn, còn in chữ lên da thì xin khất, họ còn nài rằng treo tạm thôi, diễn xong gỡ, bà chỉ tay ra mé nước, nhắc chuyện dây điện treo ẩu đêm trước, nói cái gì tạm mà lấn nước thì đều thành lâu, cái gì lâu mà không nghe nước thì hóa ồn, hai người ngượng, cười gượng, bỏ danh thiếp lại, nói nghĩ lại, rồi đi, bóng xe khuất, mặt bờ nhẹ như vừa trút cái khăn ướt.

Chiều ngả dần, mây gom mỏng, con nước ròng tới đáy, lộ ra một gờ bùn mềm có vệt chân trẻ con in hồi sáng, tụi nhỏ được nghỉ sớm, mỗi đứa ôm theo một con cá lá dừa, con Nụ ôm bảng như ôm gối, nó xin mẹ được vẽ thêm một đường dưới chữ “Xin ngồi yên” để bữa nào mưa nước chữ không rơi khỏi khung, bà Bảy đưa miếng phấn nhỏ, bảo con vẽ đi, tay còn thơm mùi lá dứa, vẽ xong, nó chạy ra bến, giơ bảng trước ngực, bắt chước giọng chị Nhị “xin ngồi yên”, miệng bật cười, cặp răng sún lóe như hai cái bông súng non, cả bờ nhờ vậy mà đỡ căng.

Hoàng hôn rót mật mỏng lên mặt nước, tiếng đờn cò thử một dây nghe như một câu hỏi chưa cần trả lời, Thu An gọi cả nhà ráp thử thêm một lượt “Cá hóa Rồng”, lần này tập đoạn cá nghỉ giữa đợt thứ tư, đúng khoảnh khắc người kéo thở ra, ánh hạ thấp nửa nấc, mùi lá dứa thả như một cái chấm than rồi tắt, con cá không bốc khỏi mặt ánh bằng sức mạnh, mà trườn vào lớp bạc mỏng của nước, không ai bảo ai, Khoa không bật máy, Phúc không dơ máy, My không nâng giấy, ông Trọng không viết, cô Ba không gõ thêm, ông Sáu không luyến quá, Tín vẫn đặt mái chèo ở vị trí chuẩn bị, anh Hai vẫn giữ thót bụng, bà Bảy vẫn ngồi nơi cửa, tay lật mặt khăn, tất cả đều đợi đúng cái rùng mình rất nhỏ của mạch bùn, khoảnh khắc ấy tới như một con đom đóm bật lửa xong lại tắt, người bờ kịp nhìn nhau, môi mấp máy một chữ “ừ” không phát ra, rồi mọi thứ trôi, không dấu vết.

Đêm phủ xuống, xóm chài sáng lên từng đốm đèn vàng như nhang bắt đầu tàn, bờ ruộng xa đưa lại tiếng côn trùng râm ran mà không dồn, trời không gió nên khói lá dứa đi thẳng một đoạn rồi tan, Phòng văn hóa gửi thêm một tin nhắn gọn: “Ngày hội có đoàn quay truyền hình tỉnh, xin gánh cho phép quay 5 phút, không đèn hỗ trợ, không dựng cẩu, micro cài kín”, bà Bảy đọc cho cả nhà, gật, bảo “năm phút không bằng một hơi thở dài, cứ để họ quay như người đi ngang hiên nhìn vào bếp”, Thu An nhắn lại một câu “mời”, rồi cẩn thận ghi vào sổ vị trí máy quay an toàn, đường đi của người cầm máy không đụng vạch phấn, chỗ đứng xa của kỹ thuật để mùi đừng bị đuổi, ghi xong, nó ngẩng lên, thấy mẹ đã treo khăn về chỗ, đường chỉ xanh yên như đường mạch trời trên mặt nước đêm yên.

Khuya hơn, gió từ đồng đưa tới một hơi mặn mỏng như muối chấm đầu lưỡi, người trong chòi thưa dần, chỉ còn Thu An ngồi tựa cột, cuốn sổ mở trên gối, nó chép lại trong ngày những việc nhỏ đã làm, những việc ngày mai cần tiếp, những câu nói trong, những cái nhìn bền, nó chép cả dòng người ghé xin in logo nhưng rồi đi, chép cả tên anh thợ bến chợ mang dây cáp, chép cả cái cười sún răng của con Nụ, chép cả câu hứa “không bay nếu gió”, chép cả lời của Phúc “đèn đi sau tiếng”, chép cả ý của Trọng “thêm chữ nhịn”, chép cả mùi cháo gạo rang trong sương, mỗi chữ viết bằng bút máy ngậm mực như thở, mực bám vừa đủ, không quá đậm, không mờ, nằm lên giấy như một vệt nước đọng đúng lúc, để sáng ra lật lại có cái mà lần.

Sáng kế, trời quang trắng, tiếng mái nhà ai đó gõ nhẹ như sửa chốt, Tín báo chân đã đỡ, xin xuống nước sớm, bà Bảy dặn chỉ tới mắt cá chân, đừng ham, anh Hai vác tre ra bờ, cô My đem một tấm vải thô lớn, nói xin thử căng làm “màn nghỉ” bên trong, lỡ mưa bất chợt thì kéo vào, đèn dầu đặt phía sau tấm vải sẽ hắt lên một thứ ánh làm người ta nhớ đêm nằm sau bếp, Khoa khoác máy, bảo hôm nay chỉ ghi mùi, nghĩa là ghi bằng chữ, Phúc gật, đưa anh một tờ giấy in mỏng, bảo “ghi bằng lòng”, Thủ từ làng ao đình gửi nhờ người mang qua một bọc sen non, dặn “nấu chè mà ăn cho mát”, kèm một tờ giấy chép tay bài chào Tổ nhà họ, nói để khi gánh ghé nữa, khỏi quên giọng đất.

Tin sát trưa từ thị trấn lại chạm đến bờ nhà, lần này không phải lời mời bán vé riêng, mà là thông báo chặng đua xe đạp phong trào chạy ngang bờ sông đúng ngày tổng duyệt lễ hội, loa tay sẽ mở nhạc cổ động lớn, đường người xem sẽ tràn vào lối bờ, trưởng ấp luống cuống hỏi liệu dời giờ ráp được không, bà Bảy nói dời, nói rút, nói “mình là người ở đây, mình né để khỏi cãi nhau với lối của người bạn mới đến, đua xong hẵng kể”, câu trả lời làm Thu An thấy cái chữ “nhịn” Trọng viết dính vào cột như chớm cười, nó sửa lại lịch, nhắn cho cả nhà, nhắc riêng bọn nhỏ bữa đó đừng ra bờ coi xe, ở chòi học nút gỡ, hứa cuối buổi cho kéo rối lá thêm mười nhịp.

Buổi chiều, tổng duyệt bị dời, bờ bỗng rảnh, không định trước mà thành buổi “đọc bờ”, Trọng rủ bọn nhỏ nhắm mắt ngồi, mở tai nghe tiếng bọt nhỏ nổ dưới mé phên, ông Sáu chỉ cho tụi nó cách phân biệt tiếng lưỡi cá quẫy với tiếng lá rụng trên nước, cô Ba gõ hai tiếng cách nhau một hơi dài để tụi nó đo bằng ngực thay vì bằng đồng hồ, Thu An cho tụi nhỏ ngửi hai mùi: lá dứa vừa phơi và lá dứa phơi già, bảo mùi nào vào đêm dễ quá tay, bọn nhỏ trả lời líu ríu, đứa đúng đứa sai, đứa “dạ” đứa “ừ”, tất cả dồn lại thành một chiều có mùi học, kiểu học không chữ mà dính lâu.

Trời tối, những nhà quanh bờ bật đèn dầu đồng loạt như người ra hiệu cùng lúc, con nước bắt đầu đổi, ròng lui, lớn thăm, mặt sông như ai vuốt tóc, đám đom đóm gom ánh về phía ruộng, con Nụ ngủ gật trên vạt chiếu ngoài hiên, mép vẫn cười, tay vẫn ôm bảng, Thu An phủ khăn lên bụng con bé, trở vào chòi, châm một nén nhang nhỏ, khấn vắn tắt hai chữ “đủ yên”, rồi ngồi lâu một chút trước đường chỉ xanh mẹ thêu, trong đầu hiện rõ sợi chỉ vô hình nối bờ nhà với ao đình, nối ao đình với sân gỗ công viên, nối sân gỗ công viên với khoảng hiên chật hẹp dưới mưa, nối khoảng hiên chật hẹp dưới mưa với một tối trăng lơ lửng trên mái phên, sợi chỉ ấy, từ lúc nó đặt chân về làng, đã nuột dần, đã bền dần, đã được buộc thêm mối “rành”, mối “vừa”, mối “yên”, mối “nghe”, nay được cột thêm mối “nhịn”, mai chắc sẽ cột thêm mối “ơn”, ngày kia biết đâu cột thêm mối “chia”, nhưng mối nào cũng chỉ là mối, muốn nó giữ thì tay phải ấm, mắt phải sáng, ngực phải đều, lưng phải chắc.

Ngoài sông, có tiếng mái chèo khuya chạm một cái vào mạn ghe nghe như tiếng gõ cửa của một người quen, bà Bảy nói nhỏ “nước tới”, Thu An dạ, kéo tấm bạt chống ẩm xếp gọn, tắt đèn dầu, để lại một đốm mờ như mắt đom đóm, vén màn tre, mở khe lớn hơn cho gió vào, mùi đồng xa luồn vô như lời gửi, nó nằm xuống ván, tay vẫn vẽ trong không khí một sợi chỉ từ mép phên tới tấm khăn, từ tấm khăn tới mũi ghe Tín, từ mũi ghe Tín tới bảng phấn con Nụ, từ bảng phấn con Nụ tới ngón tay anh Hai đang buộc sợi dây mới, từ ngón tay anh Hai tới đầu bút máy của ông Trọng, từ đầu bút máy tới ống kính chưa bật của Khoa, từ ống kính chưa bật tới tờ báo không giật tít của Phúc, một vòng khép kín mà thông khí, một mạch chảy hằng, sáng mai dậy, nước sẽ khác, gió sẽ khác, người đến sẽ khác, chuyện mới sẽ gõ cửa, nhưng cách kể chắc không khác: chậm một nhịp để nghe, bớt một nấc để vừa, rút một tay để yên, thở một hơi để rành, mỉm cười một cái để ơn, nhịn một chút để bền, mở một lối nhỏ để chia, rồi nấu một ấm lá dứa, rót hai chén, đặt một chén lên đường chỉ xanh, bưng một chén ra hiên, đưa cho mẹ, ngó xuống nước, nói khẽ: “Nước ơi, hôm nay mình kể tiếp.”

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout