Buổi sáng đó mở ra bằng một mùi nhang trầm len qua gió sớm, như thể bờ sông gửi ngược về nhà một lời chào kín đáo, Thu An đang lau lại mặt phên thì con Nụ ôm khư khư tấm bảng “Xin ngồi yên” chạy vào, phía sau là chú Năm Tỵ gác mái xuồng ngoài bến, tay cầm một phong bì nâu đóng dấu son, chú nói thư của làng bên, là cái làng có đình cổ cặp mé ao sen lâu năm vắng tiếng rối, nay họ sửa ao, tu mái, chắp lại hàng liễu, muốn mời gánh của bà Bảy qua khai hội mùa tới, không đèn to, không loa lớn, chỉ xin kể một đêm cho lũ trẻ mới lớn biết rối nước là gì, cho người già đang nhớ nghề đỡ thở dài, nghe xong, cả chòi im một hơi dài như tiếng mặt nước sau cơn gió rút, rồi bà Bảy ngẩng lên, đôi mắt nâu đậm thốt lặng một vệt sáng, vừa mừng như gặp lại người bạn cũ, vừa băn khoăn như chạm vào kỷ niệm có mùi mưa xa, bởi ao đình ấy là nơi ông nhà ngày trước từng kể khúc “Trâu mốc qua phà”, những đêm khói đèn dầu vẽ mỏng trên mặt sen, tiếng chập chõa nghe dày như cơm nếp mới bới, Thu An nghe mẹ nhắc khẽ chuyện cũ mà lòng chùng một nhịp, vì biết chuyến đi đó không chỉ là một suất diễn, mà là đi ngang qua chỗ ký ức của má, chỗ gió nói giọng khác với bờ sông này.
Thư mời ghi rõ ao đã vét, bờ đã đắp, những cọc gỗ quanh mé đã thay, nước sâu vừa gối gối, bè sen còn non, có căn nhà thủ từ cạnh đình cho gánh tạm tá túc, có đội thanh niên tự nguyện túc trực, có người đọc văn tế khẩn cầu Tổ nghề, có người giữ loa tay nhưng hứa chỉ dùng vào lúc cần, ngày giờ dự định rơi vào khoảng nước đứng, lại có một dòng nhỏ xin gánh coi giùm chuyện ánh, vì mấy bô lão sợ ánh lạ lấn mùi trầm, Thu An cầm thư, mắt chạy một vòng trên những dòng chữ mộc, miệng đã lẩm nhẩm danh sách phải chuẩn bị, nào là đổi tấm mica chìm thành tấm hắt nhẹ trên mặt vì ao cạn hơn sông, nào là dời mùi lá dứa sang một nấc rất thấp để không cãi nhau với nhang khói nơi cửa đình, nào là bóp nhẹ tiếng đờn để không va vào tiếng mõ canh khuya, nào là tập bài chào Tổ theo cung bưng trống bên ấy, những việc nghe tưởng nhỏ mà hở tay sẽ xước.
Xế trưa, ông Trọng ghé, mang theo một cuốn sổ tay bọc vải thô, nói chữ “rành” ở sông không giống chữ “rành” ở ao, vì mặt nước ao tĩnh hơn, tiếng vọng gần hơn, bóng đèn dễ chiếu loang lên mặt đình, người ngồi bờ chùa quen nhìn màu nhang, không quen nhìn ánh mạnh, nên “rành” ở đó là rành chỗ bớt, “vừa” ở đó là vừa chỗ nhịn, “yên” ở đó là yên chỗ không chạm, còn “nghe” ở đó là nghe cả tiếng ếch chui trong bẹ sen, nghe cả tiếng giọt nhựa từ thân liễu rớt xuống mặt nước rất khẽ, nghe xong, bà Bảy chậm rãi gật, đôi bàn tay đan vào nhau trên mép khăn thêu đường chỉ xanh, ánh mắt dõi ra sông như men theo một sợi chỉ vô hình nối bờ nhà với bờ đình, Thu An ngồi viết vào sổ những hàng chữ kín, chữ nào cũng lót một quãng trống nhỏ như khe thở, để mai đọc lại nhớ dừng đúng nhịp.
Chiều đổ xuống với mùi rơm non từ đồng xa, Tín chống thuyền ghé, bưng theo hai bó tre đã vót thẳng, bảo tre này chịu nước ao hơn vì thớ mịn, cọc cắm không tưa bùn, anh Hai từ bến trên trở về, vai vác một cuộn dây rơm mới bện, nói dây rơm chỉ dùng chỗ khô vì thấm thì nở, nhưng trói bờ liễu thì đẹp, Phúc nghe tin ao đình trong bụng như có ai đánh một tiếng trống nhỏ, mắt sáng hẳn, hứa sẽ viết một dòng tựa ngắn như lời gọi, Khoa thì tạm gác máy, xin ngồi nghe tập bài chào Tổ, cô My gỡ mấy mảng hoa văn sen - cá vừa vẽ vội đêm qua, đem ra hỏi mẹ, bà Bảy nhìn một lúc lâu rồi bảo sen trên phên chỉ nên là bóng mờ, đừng thành hoa, sen ngoài ao đủ rồi, cứ để ánh trời in xuống mặt nước làm họa sĩ, còn mình chỉ làm người nâng khung nhìn.
Tối đó, cả gánh tập ở chòi như tập thở trước chuyến đi, ông Sáu đổi cung, kéo một câu mở màn dài hơn, dây đờn chạm vào bóng tối nghe thảo một tiếng cũ, cô Ba gõ nhịp chào Tổ ở nhịp sớm hơn nửa hơi để sau này chèn vào tiếng mõ đình không trật, Thu An bật đèn trên mái rồi hạ tức thì, thử cảm giác “bật mà như không”, khói lá dứa thả ít đến mức phải nghiêng đầu mới thấy, mùi chỉ gõ khẽ vào mũi như ai gọi khe khẽ ngoài cửa, con Nụ ôm bảng “Xin ngồi yên” ngồi phía bậc thềm, chốc chốc lại ngước nhìn chữ mới bà Bảy viết thêm bằng phấn “Xin chào Tổ”, những đứa nhỏ trong xóm tụm lại ở mép sân, học nằm lòng mấy câu “dạ” “bẩm” của phần chào, giọng non mà rõ, khiến cái tối nghe như rộng ra.
Sáng hôm sau, trời trong như lòng chén, gánh lên đường, chiếc ghe lớn của chú Năm Tỵ chở đầu rối nằm im dưới chiếc mền vải, chở dây, chở đèn, chở cả ấm nước lá dứa, bờ sông phía nhà lùi lại, bờ ao đình từ từ hiện ra, hàng liễu thả tóc, bè sen đầm đìa hạt nước, mái đình gỗ rêu như người già ngồi thong dong, thủ từ áo nâu ra đón, cúi chào bà Bảy như chào người quen, hỏi han đôi câu chừng mực, dắt vào thắp nhang trước bàn thờ Tổ nghề kê sát gian trái, khói nhang khác ở nhà một chút, nồng hơn, cay hơn, nhưng nhịp bay vẫn hiền, bà Bảy khấn vắn tắt, tay đặt nhẹ lên mép bàn như đặt lên vai người thân, Thu An đứng sau, nghe tiếng khấn mà tự nhiên nhớ một buổi chiều xa lắc, lúc nó chưa biết chữ, ngồi nép vào gối mẹ nghe ông nhà kéo đờn nơi đây, tiếng đờn vượt mặt ao chạy thẳng vào lòng, không đi vòng.
Việc dựng ở ao đình bắt đầu bằng những cái gật, không một tiếng quát, không một tiếng “Nhanh lên”, Tín thăm nước, đo chỗ sâu chỗ cạn, đóng cọc những chỗ thủ từ khoanh sẵn, anh Hai buộc dây néo vào gốc liễu nhưng chêm lót vải để khỏi xước, cô My dựng thử một khung phên mỏng cho ánh phản mà không đổ thẳng, Khoa không mở máy, chỉ ghi bằng mắt, Phúc đi chuyện trò mấy bà cụ bán trầu, ghi mấy câu dịu, ông Trọng đứng dưới bóng liễu, bày mực tàu, hỏi xin treo bốn chữ ở chỗ nhìn ra ao, thủ từ cười, chỉ một cây cột gỗ lim đã mòn bóng, bảo chữ treo ở đó sẽ lọt vào mắt người đi chậm.
Khi mặt trời xế nhẹ, gánh ráp thử một khúc, không phải kéo đủ tích, chỉ là tập thở cùng ao, ông Sáu kéo độ nhỏ hơn thường, dây đi không xa mà ấm, cô Ba gõ một câu chào Tổ khiến mấy con chim sẻ trên mái đình giật mình bay, rồi đậu lại ngay, Thu An bật một vệt ánh như sợi tóc rơi, khói lá dứa lẫn trong khói nhang, hai mùi bắt tay nhau không cãi, con cá mới đẽo lướt qua mặt ao, bóng nó chạm vào mấy đốm sen non như chạm vào mắt ai, người làng bên không ai vỗ tay, họ đứng yên, miệng mấp máy những câu hát cũ như lời ru bập bềnh, thủ từ gật một cái rất nhẹ, nói giọng trầm rằng “được”.
Y như mọi cuộc gặp mặt giữ ý, ngay khi thấy “được”, trời bèn thử, một đám mây mảnh từ phía đồng xa kéo tới, gió lật lá liễu thành mặt bạc, mặt ao nổi lên những vệt run như người cầm chén trà mà bàn tay bất chợt nhớ một chuyện buồn, tia nắng cuối rơi loang ra thành những mũi gai nhỏ, Thu An hạ ánh thêm nửa nấc, ông Sáu nén dây xuống cung trầm, cô Ba thả chập chõa đi như thở, Tín chuyển chân, anh Hai bấu sào, con cá đưa vai, My đỡ tấm phên, bờ không xao, thủ từ đứng thẳng, mắt sâu, đầu khẽ nghiêng, tựa như đang nghe mạch nước dưới nền đình, cơn thử đến rồi đi trong một cái chớp mắt dài, để lại mặt ao sáng mịn như mặt vải vừa vuốt, để lại tiếng thở của người xem cùng nhau thả ra, để lại tiếng lá liễu chạm vào nhau nghe như tiếng hai người nói chuyện nhỏ.
Đêm đến, đình thắp đèn dầu, không điện, không bóng trắng, trăng chưa mập nhưng đủ treo một góc mái, gánh ngồi ăn cơm nắm với cá linh kho mặn thủ từ gửi, mỗi người một chén nhỏ, không ai nói lớn, mỗi câu chuyện như được bọc bằng vải thô, Thu An nghe mẹ kể đoạn xưa, lần đầu ông nhà kéo rối ở đây bị mưa dồn, rút vào hiên đình mà kể bằng đèn dầu, khán giả ngồi sát như ngồi quanh bếp, tiếng đờn hòa tiếng mưa, kết màn xong không một tràng pháo tay, chỉ có tiếng dép lẹp kẹp về muộn và tiếng người già khẽ “ừ”, chữ “ừ” đó tới giờ vẫn còn nằm ở đây, chắc dưới mạch bùn, chắc trên vỏ liễu, nghe tới đó, Thu An hình dung chữ “ừ” như một sợi chỉ buộc nhẹ vào cổ tay, khi quá tay nó kéo lại, khi thiếu tay nó đẩy lên, nên người kéo không lạc.
Hôm sau, buổi diễn thật dành cho trẻ con làng bên diễn ra lúc nước đứng như lời thư đã tính, lũ nhỏ mặt đỏ như trái ổi chín ngồi hàng đầu, mấy ông bô lão ngồi sau, bà mẹ ôm con mấp mé bên thành ao, bảng “Xin ngồi yên” đặt tựa vào cột lim, chữ phấn có thêm một đường kẻ cho khỏi trôi, ông Trọng treo bốn chữ ở chỗ người đi chậm dễ nhìn, thủ từ đứng một bên, tay cầm cây gõ, mở đầu bằng một câu chúc bình, tiếng nhẹ mà lắng sâu, gánh chào Tổ theo đúng bài học, không thêm, không bớt, rồi câu chuyện đi, không hối, không khoe, không giành phần của ao, con cá bơi qua ba đợt sóng bằng lưng người kéo, ánh đi theo như đứa con đi sau lưng mẹ, mùi lá dứa khẽ hơn cả tiếng giẫm nước của con chim đỗ quyên, kết màn, trăng xuống thêm một chấm, tiếng vỗ tay không ầm, chỉ rền rền như mạch bùn vỗ vào gầm đình.
Sau đó, lũ trẻ tới xin chạm thân cá, xin thử buộc nút, xin ngửi mùi lá dứa, xin chụp hình với con rồng xanh, mỗi lần “xin” là mỗi lần “dạ”, mỗi lần “dạ” là mỗi lần “cho”, Thu An dạy thêm một nút mới, dặn gỡ bằng hai ngón cái, dặn kéo dây “theo nhịp thở chứ đừng kéo theo sức”, dặn ngửi mùi bằng mũi chứ đừng cắn lá, những dặn dò vụn như hạt thóc rơi xuống hiên, thủ từ đứng nhìn mà cười, bảo “bàn tay nhỏ nếu học sớm sẽ đỡ quên”, bà Bảy ngồi cạnh chiếc trống nhỏ, rót nước lá dứa vào chén, mời từng người một, mắt bà xếp thêm những nếp sâu tuyệt nhiên không buồn, mà giống như ai đó dùng kim nhỏ chấm vào tấm vải một dãy nốt nhạc.
Chiều ấy, trước khi rút về, gánh đứng dưới liễu lạy Tổ, thủ từ mời bà Bảy vô gian hậu, chỉ một chiếc rương gỗ cũ, bên trong là ảnh đen trắng ông nhà ngày xưa đứng bên phên, đờn cò tựa vai, ánh mắt không nhìn máy mà nhìn qua mặt ao, Thu An run tay chạm một góc ảnh, lòng nghe một tiếng đờn lẫn tiếng nước ròng, tiếng chập chõa lẫn tiếng lá liễu, tiếng khấn nhỏ lẫn tiếng bước chân người già, tất cả chảy vào mình như nước thấm vào sợi rơm, thủ từ bảo ảnh này giữ ở đây cho đủ mạch, khi nào gánh ghé thì mở, xong lễ lại cất, không cần mang đi, vì chỗ để của ký ức không phải ba lô, mà là đoạn đường giữa hai bờ.
Đêm chèo ghe về, gió xuôi tay, bờ sông nhà sáng đèn dầu như sao mắc cạn, con Nụ ôm bảng ngủ gà ngủ gật tựa vào vai cô My, Tín chống mái đều như máy kéo, anh Hai dựa lưng vô bó tre mới, Phúc mở sổ viết vài dòng như thì thầm, Khoa cất máy để trống lòng, ông Trọng gối đầu lên ống tre mực tàu, mắt nhắm mà miệng còn mỉm cười, bà Bảy ngồi mũi, tay lần đường chỉ xanh mép khăn, nhìn chòm mây bơi ngược phía trên, Thu An ngồi ở lái, đưa ngón tay vẽ trong không khí một sợi chỉ nối từ ảnh đen trắng trong giêng hậu đình về tấm phên mới sửa, từ tấm phên mới sửa về lưng người kéo, từ lưng người kéo về mắt lũ trẻ, từ mắt lũ trẻ về mạch bùn dưới nhà, sợi chỉ đó không đứt khi ghe lắc, sợi chỉ đó không lóa khi trăng chạy, sợi chỉ đó không kêu khi gió qua, sợi chỉ đó chỉ nằm yên, như cách một câu chuyện nằm trong ngực người kể, để mai, nước đổi, gió khác, đèn treo chỗ khác, mùi nhang nhiều hay ít, người đến đông hay thưa, bốn chữ treo ở cột vẫn còn chỗ đứng, thêm một chữ nhỏ dán bên trong cũng còn, và gánh, sau một vòng đi, lại về, mang theo cái “ừ” dưới đáy ao đình, để mỗi lần mở đèn, hạ đèn, nâng dây, thả khói, cất câu, gõ nhịp, đều nhớ rằng kể ở đâu thì cũng là kể trước mặt nước.
Bình luận
Chưa có bình luận