Sáng hôm sau của đêm nước trôi mở ra bằng một thứ nắng nhạt như lòng trắng trứng vừa đánh bông, bờ dâm bụt lóe những hạt nước li ti như hạt muối nằm rải, con nước rút xuống đúng nửa gang tay để lộ ra những vệt bùn mềm còn hằn dấu dép tối qua, mùi sông trở nên hiền hơn, bớt cái tanh gắt của cơn quạu chướng, chỉ còn lại vị ấm của bùn gặp nắng, hơi mát của lá dứa phơi, tiếng chim khuyên đậu đâu đó trên chóp bần thỉnh thoảng bật một tiếng trong như mảnh thủy tinh được gõ nhẹ, Thu An mở cửa chòi khi mặt trời chưa vượt lên khỏi mí mái, khom lưng quét lại mặt phên, rà ngón tay trên đường nứt mảnh như vệt gân trên cổ tay người lớn tuổi, cảm thấy nơi ấy đã được bó bởi nút mới của Tín, đã được ôm bởi sợi dây cáp bọc anh thợ bến chợ mang qua xin lỗi, đã được trấn bởi cái nhìn yên mà sâu của mẹ đêm qua, vậy nên lòng nó dịu lại, giống như một người vừa hiểu thêm một mạch bùn nằm dưới lớp nước trong.
Bà Bảy bưng từ bếp ra ấm nước lá dứa đã hạ lửa, đặt lên bàn tre, rót hai chén nhỏ, đưa cho con một chén, chén còn lại bà không vội nhấp mà đặt sát mép khăn thêu đường chỉ xanh cho hơi ấm thấm vào vải, nhắc nhở cái “đủ” không chỉ nằm trong câu chuyện kể mà còn nằm trong cách chạm tay với đồ vật quanh mình, từ cái chén đến cái khăn, từ sợi dây đến tấm phên, không thứ gì nên bị đối xử qua loa nếu muốn nó ở bên mình lâu, nghe vậy Thu An chỉ dạ, mắt lặng nhìn mặt sông còn lấp lánh bụi nắng sớm, trong đầu đã bày ra những gạch đầu dòng cho buổi tập tích “Cá hóa Rồng” chiều nay, nơi con cá sẽ tập bơi qua đợt sóng thứ nhất đến thứ hai bằng lực tay chứ không nhờ pháo ánh, nơi mùi lá dứa sẽ thay tiếng trống hiệu, nơi đom đóm nếu ghé sẽ được nhường vị trí trên ván cho ánh trời.
Tin nhắn của Phúc đến sớm như thường lệ, báo đoạn phim mười giây Khoa quay đêm qua, nơi ánh đứng yên trên cao như một con chuồn chuồn không muốn đậu, đang được biên tập lại trong một bản tinh gọn, không chữ chạy, không nhạc nền, chỉ giữ tiếng chập chõa xa xa, giữ tiếng thở người xem lúc nín lúc buông, giữ một mảnh khói lá dứa mỏng như dải khăn quàng của một bà cụ ra hiên, Phúc nói thêm hôm nay anh sẽ đưa tấm ảnh in trăng rọi tối qua cho ông Trọng ký bút hiệu trước khi tặng lại cho gánh, coi như một cách đóng dấu bằng chữ vào cái nhìn bằng mắt, vừa khi ấy, Khoa cũng ghé với chiếc hộp đã cất máy ngủ kỹ, ngoài miệng thì cười nhưng dưới mắt vẫn còn những vệt thâm mờ do đêm qua không dám chớp nhiều, anh nói muốn ngồi ở bờ một ngày trọn để xem nước ròng thay áo từng giờ, xem gió ngoài vàm đổi ý mấy lần, xem tiếng người làng đổi cường độ theo bữa ăn, để đến chiều nếu phải nâng máy, tay sẽ biết run đúng chỗ.
Tín đến bằng chiếc thuyền câu như mọi bữa, chân trái băng trắng đã bớt sưng, tay ôm thêm mấy đoạn tre thẳng, miệng thông báo đã nhờ chú Bốn ở xóm trên vót giúp một chiếc sào dự phòng dài hơn thường, phòng khi bữa nào nước lại đùa, trong túi áo còn nhét một cuộn dây chuối khô mới bện, thứ dây nghe tưởng xưa mà hóa ra hợp nhất với phên tre vì co giãn êm, buộc vào nghe tiếng thở chứ không nghe tiếng rít, Thu An đón lấy, khen sợi dây ăn tay, rồi gỡ ra một đoạn, dạy con Nụ thắt nút trượt theo cách hai vòng ôm một vòng, kéo đúng hướng thì ôm, kéo ngược thì nhả, con bé cười, cái cười không giấu được mấy chiếc răng sún, ôm bảng “Xin ngồi yên” đứng nghiêng nghiêng như người giữ cửa chợ, đôi mắt học cách đo gió bằng lông tóc bay rất khẽ.
Đến xế, cô My đem theo xấp hoa văn mới vẽ, những đường cong đuôi cá, những vệt sóng hình lưỡi liềm, những chấm tròn như bọt nước, cô nói đêm qua nằm nghe tiếng sào nứt, nghĩ tới lưng cá chạm đá, bèn vẽ thử thứ cảm giác rợn da ấy lên giấy dầu, thử dán vào mặt sau phên một mảng mỏng, để khi ánh lướt qua đúng lúc cá chuyển đợt sóng, người ngồi bờ không kêu “đẹp” mà chợt rùng mình như vừa sờ trúng một ký ức trong ao nhà, bà Bảy xem, gật theo kiểu vừa mừng vừa cân đo, dặn dán thì dán ở chỗ khô, diễn xong phải gỡ sạch như chưa từng có, để phên vẫn là phên, để da vẫn là da, không biến bột thành bột màu bền như sơn, bởi thứ bền của sông là bền nhờ thay đổi được theo mưa theo nắng, bền nhờ chấp nhận tróc rồi lại bồi.
Giữa lúc mọi người mải nhìn vào phên, ông Trọng từ đầu bờ thong thả đi tới, tay ôm ống mực tàu, vai đeo túi vải đựng những tờ giấy dó đã ép khô, ông đặt ống tre xuống, bật nắp, mùi mực tàu ngai ngái lan ra như mùi đất sau cơn gặt, nói rằng đêm qua nhìn bốn chữ treo ở cửa, ông nghĩ thêm một chữ nữa nên có mặt trong căn chòi này, chữ ấy không nằm trong hàng “rành”, “vừa”, “yên”, “nghe”, chữ ấy nằm dưới, hạ giọng như nền, chữ “nhịn”, nhịn ở đây không phải chịu thiệt, không phải nuốt vào để thành cục nghẹn, mà là thứ nhẫn nại của người đứng bờ thấy gió trái chiều thì ôm dây chớ không gào, thấy nước lửng thì ngồi chớ không xô, thấy lời mời “đóng gói” thì cười chớ không khinh, nhịn để dành hơi kể tiếp, nhịn để đủ sức kéo dài một mạch, nhịn để tiếng đờn đừng hụt, nhịn để giữ hương lá dứa không bị gió giật tạt quá sớm, Thu An nghe, bỗng thấy cổ họng ngọt như vừa ngậm một miếng đường thốt nốt, xin ông viết chữ ấy nhỏ thôi rồi dán vào mép trong cột, chỗ mắt ít chạm nhưng tay hay vịn.
Đúng đầu giờ chiều, một chiếc xe khách nhỏ đưa mấy sinh viên kiến trúc đến, mặt còn phờ phạc do chuyến phà dài, nhưng mắt sáng lên khi được Thu An bảo bỏ tập vở xuống, đi chân trần ra bờ, đặt mu bàn tay cách mặt nước một gang, cảm gió bằng xương thay vì bằng điện thoại, đứng im ba phút nhìn một điểm nước nhỏ để thấy nó đổi ba lần sắc độ, ngồi lên phên mà lắng xem tiếng rít sinh ở góc nào, đi vào chòi ngửi mùi sơn ta đã khô mà vẫn thở, đặt tai gần miệng lò đất nghe lửa mút khói ra sao, ghi chép bằng tay thay vì chụp, bút mực chảy ra ướt hơn, chữ mềm như sợi rơm, một cậu sinh viên lắp bắp nói chưa học được trong trường về thứ “độ” của mùi, My khúc khích bảo độ mùi ghi bằng mắt trước rồi bằng mũi sau, Trọng gật, thêm rằng ghi bằng lòng nữa thì lâu quên.
Tin từ phòng văn hóa huyện chuyển đến trong một cuộc gọi ngắn, thông báo tháng sau Ngày hội Sông Nước tăng thêm một buổi dành cho học trò tiểu học, xin gánh làm một khúc kể tương tác nơi trẻ sẽ được thử kéo một con rối lá dừa, thổi nhẹ lên mặt nước nhìn bọt chạy, buộc nút trượt rồi tự tay gỡ, Thu An cầm máy nghe mà tay đã viết vào sổ ba hàng, một hàng dặn mượn thêm áo phao, một hàng dặn lưới mịn quây chặt góc sân gỗ, một hàng dặn My chuẩn bị mấy mảng hoa văn dán thử chứ không dán thật, bởi trẻ con nên chạm nhiều hơn nhìn, Bà Bảy nghe xong nói bữa đó cho tụi nhỏ ngồi gần mùi bếp, chứ đừng gần tiếng loa, tụi nó sẽ nhớ mùi dai hơn, nhớ tiếng một lát rồi quên, nhớ mùi thì đem về nhà kể cho ngoại nghe.
Chiều sau đó, trời kéo một dải mây mỏng như ai hơ khăn qua nắng rồi vắt lên đọt bần, con nước ròng điềm đạm, mặt sông lộ ra những ô bùn non như thửa ruộng vừa xả nước, gió thổi mềm, đồng xa đưa mùi rạ, gánh quyết định ráp thử khúc đầu tích “Cá hóa Rồng”, ông Sáu kéo dây đờn thấp hơn mọi bữa một cung để lòng người đừng phấn mà lỡ nhịp, cô Ba gõ chập chõa khoan thai như người đang bơi mà biết giữ hơi, Tín đứng mũi thuyền câu, tay đặt sẵn ở mái chèo như một cái van nước, anh Hai đỡ lưng con cá mới đẽo còn thơm mùi gỗ, My nấp phía sau tấm phên đợi ánh chạm đúng vệt hoa văn, Khoa tháo nắp hộp nhưng chưa bật máy, Phúc đứng rất xa, đưa mắt thay ống kính, Trọng ngồi bên cột, lưng thẳng, tay cầm bút nhưng không viết.
Con cá rời bệ bằng một cú nhấc nhẹ như ai nhấc chiếc nia gạo khỏi bậc bếp, lướt vào lớp ánh mỏng như tơ, thân gỗ đón lấy đợt sóng nhỏ đầu tiên bằng một độ nảy vừa đủ để người ngồi bờ thấy sống lưng nó rung mà không bật, mùi lá dứa được thả vào đúng lúc thớ gỗ chạm bờ ánh, khói bò ngang như một đường cước, đom đóm buổi chiều chưa bật, trăng chưa lên, vậy nên mặt sông nhận lấy ánh rồi trả lại bằng một lớp bạc non như vảy cá còn mềm, tiếng đờn nén lại, chập chõa mở rộng, con cá vượt đợt sóng thứ hai bằng một cú nhấn vai anh Hai thay vì nhờ ánh đánh lừa, tới đợt thứ ba, Thu An hạ ánh xuống nửa nấc để người ngồi bờ nhìn thấy bờ thật của nước, không thấy bờ giả của đèn, bờ ấy chính là mạch bùn mảnh ẩn dưới, thứ mạch đêm qua vừa chịu gió đã lên tiếng.
Rồi một điều lạ nhỏ xảy ra như quà tặng, một vệt nắng từ khe mây lọt xuống đúng lúc con cá chuẩn bị ngóc đầu, vệt ấy không kéo dài, không lóa, chỉ như một ngón tay trời chạm vào vảy, cả bờ bật lên một tiếng thở khẽ mà nghe như “à”, Thu An kịp rút tay khỏi công tắc, quyết định không đuổi theo ánh trời, để trời là trời, để người là người, để ta là tay kể, sự nhường ấy làm Trọng mỉm cười, My hạ tờ giấy hoa văn chưa dán, Phúc xếp máy vào túi, Khoa chôn chân như kẻ sợ làm rơi mất một khoảnh khắc không mua được, bà Bảy thì dõi mắt theo sợi khói lá dứa leo qua vệt nắng rồi tắt đúng lúc, như người biết mở miệng vừa rồi biết ngậm lại đúng chỗ.
Khúc thử kết thúc trong tiếng côn trùng bắt đầu nổi, nước ròng tiếp tục rút, bờ lộ thêm những con hà vôi nhỏ bám vào gốc bần, mặt phên khô nhanh, mùi bùn chuyển từ tanh sang ngọt, người làng đứng xem tản ra như mây lặng, mỗi người đem theo một mảnh nhỏ của câu chuyện, có bà cụ ôm rổ rau đi ngang chép miệng nói lưng cá rung giống như lưng ông nhà tôi hồi trẻ bơi qua rạch, có đứa nhỏ sờ lên thân gỗ rồi giấu tay vào túi áo như muốn mang vệt mùi về, có anh thợ bến chợ ghé trả thêm mấy con ốc inox cũ chùi sáng, bảo gắn vào chỗ phên nứt cho đỡ góc sắc, có một cô giáo thị trấn hỏi lặng lẽ rằng mùi lá dứa mua ở đâu cho đúng, Thu An cười, chỉ tay ra vườn, nói lá này hái sau mưa, phơi vơi chứ không phơi đến giòn, buộc lại bằng sợi chỉ chuối khô, đốt bằng lửa nhỏ, đừng để ngọn liếm lâu, mùi thơm vừa đủ là tắt.
Đêm trùm xuống như khăn lụa nâu, chòi rối lên đèn dầu, tiếng đờn cò ở đâu đó vang sang như tiếng một người kể chuyện đang tự ôn lại đường đi, Thu An ngồi ở bậc tre, mở cuốn sổ lớn, viết thêm vào kịch trình những dòng rút ra từ buổi chiều, mép giấy thấm mồ hôi tay thành quầng, chữ chạy dài như vệt nước, ghi rằng đợt sóng thứ ba cần hạ ánh để nhường mạch bùn, ghi rằng mùi lá dứa thả sớm một hơi ngắn để thu về trước khi ánh trời ghé, ghi rằng lưng cá rung đúng bằng độ thở của người kéo, ghi rằng mắt người ngồi bờ tự nhận ra vẻ đẹp, không cần mình chỉ tay, ghi rằng chữ “nhịn” nên dán ở cột phía tay trái, chỗ Thu An hay đứng, để lỡ bốc lên mà ham, ngước lên sẽ nhớ hạ xuống.
Bà Bảy từ trong nhà bước ra, tay cầm một miếng vải mộc, chụp lên vai con, nói mai ròng sẽ còn rút, mái phên phải thay ba thanh tre, những chỗ mối lượn đã ăn vào cần cạo sạch rồi phết dầu, áo phao của tụi nhỏ đem phơi nắng, giỏ cứu thương ở trạm y tế mượn thêm bông băng, lưới mịn vá lại góc rách, bảng phấn con Nụ vẽ thêm một đường kẻ để chữ khỏi trôi, xong các việc ấy thì bắt đầu chà thân cá một lớp dầu bóng mỏng cho ánh bắt mà không trơn tay, rồi cười, cái cười không phát tiếng nhưng làm đuôi mắt hằn thêm một nhịp, bảo con đêm nay ngủ sớm, mai còn cột thêm mấy sợi chỉ giữa người với nước.
Khuya tràn vào như một bát chè đậu xanh đặt ngoài hiên, mát chậm, ngọt muộn, gió đồng hôn lên mái rơm tiếng rì rào như một câu kinh xưa, mặt sông trong như gương soi lòng người, đom đóm bật lửa trên cỏ như những dấu chấm nhỏ chồng lên dòng chữ dài, Thu An khép sổ, thổi tắt đèn, để lại một đốm sáng tí ti vừa đủ để không vướng chân, ngồi thêm một lát nơi bậc tre, vẽ trong không khí một sợi chỉ nối từ mạch bùn đêm qua đến vai cá chiều nay, từ vai cá chiều nay đến tay người kéo, từ tay người kéo đến mắt người xem, từ mắt người xem đến bàn thờ Tổ, sợi chỉ ấy không căng như dây đàn, không lỏng như sợi rong, nằm đó như một lời hẹn lặng, mai ròng nữa, ròng tới đáy, rồi lại lớn lên, rồi sẽ có một đêm cá hóa, không bằng lửa, không bằng khói dày, không bằng tiếng loa, mà bằng cách người ta ngồi yên nghe nước, ngửi một mùi, nhìn một vệt, thở một hơi, mỉm cười một cái, chắp tay một chút, đứng dậy một lúc, rồi đi về trong lòng nhẹ như vừa gỡ xong một nút, để lại sau lưng bờ sông đang ngủ, trong giấc ngủ ấy có mạch bùn cựa khẽ như trái tim trẻ sơ sinh, dưỡng nuôi một câu chuyện khác đã nhen.
Bình luận
Chưa có bình luận