Chương 8: Đêm nước trôi



Chiều ấy trời đục như lòng nồi đất để quên trên bếp, hơi nước nâng lên từ mặt sông một tấm màn mỏng khiến mọi tiếng động đều bông ra, ngay cả tiếng chập chõa cô Ba gõ thử cũng trở thành những dịp thở dài lửng lơ chứ không dứt khoát như mọi bữa, còn con nước thì cứ nhích từng chút như bước chân người già lội ruộng mùa bùn non, không vội nhưng cũng không hề chịu đứng yên, khiến bờ dâm bụt ướt sũng, vạch phấn trắng đánh dấu ranh ngồi xem bị lấm sang màu tro, tấm phên ngoài cùng kêu rít một tiếng mỏng như kim chạm vào mép chén sành, rồi im.

Thu An từ trưa đã dặn cả nhà thu dọn gọn gàng, đèn nhỏ kiểm tra lần cuối, dây chống nước quấn thêm một vòng, lưới mịn buộc chặt mép dưới, tấm bảng “Xin ngồi yên” của con Nụ treo lên cao hơn một gang để bọn nhỏ dễ thấy mà nhớ, chiếc thuyền câu của Tín cột sẵn vào chân sào thứ ba tính từ bờ để nếu nước bỗng quạu thì có cái mà lao ra đón, mọi thứ đâu vào đó, thế mà lòng nó vẫn như gà con đứng trước lu nước, muốn uống một hớp mà còn ngại, vì mùi bùn hôm nay khác lắm, có lẫn một chút tanh như dao mới mài, thứ mùi của một cơn nước muốn thử sức.

Bà Bảy bưng từ bếp ra một ấm nước lá dứa sôi lăn tăn, rót vào chén sành nhỏ, đặt trước mặt con gái, tay kia vuốt lại đường chỉ xanh mép khăn bàn thờ Tổ, mắt nhìn ra mặt sông chứ không nhìn người, giọng thấp như mưa lâm râm trên mái đêm mùa hạn nói rằng tối nay nếu gió nổi thì rút vào trong ngay, đừng tiếc mấy mảng hoa văn cô My dán, đừng tiếc đám đèn nhỏ đã gắn đúng chỗ, đừng tiếc khúc dạo đầu của tích mới, người làng ngồi yên được chính là nhờ thấy tay mình biết rút đúng lúc, chứ không phải nhờ cố giữ cho đủ phút giây như tờ giấy lịch, nghe xong, Thu An gật, rồi cầm chén nước lên hít một hơi, mùi lá dứa ôm trọn đầu lưỡi, ấm, thanh, ngọt nhẹ như một lời chúc bình an gửi theo khói.

Xế chiều, Khoa ôm chiếc hộp máy, Phúc đeo máy ảnh, cô My kẹp ống giấy hoa văn, ông Trọng mang ống mực tàu, mỗi người một món như đi hội nhỏ, sinh viên kiến trúc bữa qua gửi lời xin lỗi vì vướng phà, hẹn sáng mai trở lại, anh Hai thì đã ngâm mình từ đầu hạ lưu đo chỗ xoáy, tóc ướt bệt vào trán, mắt vẫn cười, Tín chống mái chèo, chân trái quấn tạm một dải vải trắng, bảo đau tí nhưng sức bơi còn bền, con Nụ ôm bảng, đứng ngay mép hiên, mặt nghiêm như người gác cửa đình.

Trời sập tối nhanh như người ta chụp một chiếc nón lá xuống đầu, tiếng ếch ở ruộng xa dâng lên, hòa cùng tiếng mái chèo của một chiếc ghe muộn lướt qua như sợi chỉ kéo ngang mặt lụa, Thu An châm đèn dầu phụ, thử một hàng đèn nhỏ trên mái, hạ độ sáng cho vừa bằng ánh gió, khói lá dứa được thả vào lò đất, mùi thơm leo qua những kẽ ván, bám lấy những thớ gỗ cũ như gặp lại người thân, ông Sáu ngồi xuống ghế tre, căng dây đờn bằng một động tác đã làm bao nhiêu năm mà vẫn cẩn trọng như buộc sợi tóc cho trẻ nhỏ, cô Ba đặt chập chõa lên lòng, ngón tay rờ nhẹ mặt đồng, thu hết ẩm trong không khí.

Tiếng mở màn vang lên đúng nhịp, không nhanh hơn một hơi thở, cũng không chậm hơn một tiếng chớp mắt, ánh trên mái bật một nấc, phên nhận được một lớp vàng mỏng, nước phía dưới óng như mật, con rồng xanh lộ nửa mắt, khói mảnh như tơ bò ngang, mấy mảng hoa văn cô My cắt hiện lên một cách rụt rè như mồ hôi trên ván, người làng ngồi thành từng cụm thưa, kẻ đứng tay ôm thúng, người ngồi tay ôm con, bọn nhỏ nín tiếng như đã hứa với bảng phấn, không khí yên đến mức nghe được tiếng lạch cạch của con còng cát đâu đó dưới mé bờ.

Câu chuyện vừa qua khỏi đoạn người rừng gọi mây, bỗng ở phía vàm có một vệt đen tụ lại như người gom vạt áo, gió chướng ập vào một nhịp ngắn như ai búng tay, mặt nước dựng một rặng gai li ti, tấm phên ngoài cùng kêu một tiếng chát khô, sợi dây néo bên trái rung như dây đờn bị kéo nhầm, ánh trên mái bỗng đâm những chiếc gai nhỏ vào mắt người ngồi bờ vì phản xạ của nước lạ đi, Thu An kịp hạ đèn nửa bậc, rồi thêm nửa bậc nữa, nhưng gió không chịu, nó đổi hướng bất thần như trẻ con đang chạy bỗng quay đầu trêu ngươi, phên bật nghiêng, mép dưới nhúng sâu hơn bình thường một ngón tay, con rồng trên tay anh Hai chao nhẹ, đầu rồng suýt chạm vào nước thật.

Không ai hô, nhưng mọi thứ tự động chuyển chỗ như một đàn cá gặp dòng xiết, ông Sáu thả đờn xuống nhịp trầm, hai dây ôm lấy nhau như hai người già thủ thỉ, cô Ba gõ chập chõa một nhịp dài kéo hơi cho đám người ngoài bờ kịp thở, anh Hai ép thân vô cọc, bàn chân bấu vào sàn tre, dùng cả lưng đỡ cho sào không trôi, Tín phóng thuyền ra mép ngoài, mái chèo cắm xuống như đo mạch, bà Bảy đứng trong hiên, nâng cao chiếc khăn trắng như một lá cờ yên ổn, bàn tay mở ra khép lại một lần, tín hiệu duy nhất cần giữa cơn lắc.

Thu An xoay người, sờ vào công tắc như sờ vào trán của chính mình, tắt hàng đèn ngoài, để lại hai đốm phụ cho người nhìn thấy mặt nhau mà không lạc, rút ổ cấp điện của máy chiếu khỏi vị trí nước văng, kéo tấm bạt chống ẩm lên che đúng chỗ, miệng vẫn nhắc nho nhỏ một câu học được của mẹ từ thuở còn bập bẹ “nước nói trước”, tai nghe tiếng dây kẽo kẹt mà mắt đã liếc sang con Nụ xem con có hoảng không, thấy con bé ôm bảng đứng y hệt như kẻ cầm trống hiệu lệnh trong đội múa lân, mặt nghiêm mà mắt sáng, nó yên lòng hơn một phần.

Cơn gió đầu qua nhanh như một câu hờn dỗi, nhưng cái dư chấn của nước còn lăn tăn lúc lâu, như người vừa khóc xong còn sụt sịt, tấm phên thôi rít nhưng sào vẫn nghiêng một độ nhỏ, phao lưới mịn lắc chao, những dải nước lạ chạy ngược nhau tạo thành những chữ kỳ lạ trên mặt sông mà chỉ người đứng bờ mới đọc, Thu An biết màn ngoài đã hỏng, nếu cố diễn tiếp sẽ chỉ làm mất thanh khí của câu chuyện, bèn quay người, gật với mẹ, bà Bảy gật lại, câu gật như một cái chốt cửa cài đúng rãnh, Thu An ra dấu cho ông Sáu chuyển nhịp vào đoạn lặng, cô Ba đặt chập chõa xuống mặt ván, để tiếng nước điềm tĩnh trở thành nhạc nền, rồi nó cất giọng, không cao, không dài, chỉ đủ cho bờ nghe, rằng nước vừa đùa một chút, gánh xin rút vào trong để kể tiếp, ai muốn ngồi lại nghe thì xin ngồi như cũ, ai muốn về nhà chờ trăng lên thì gánh gửi theo mùi lá dứa một lời hẹn.

Không ai đứng dậy, người già tự chỉnh lại thế ngồi, mấy bà mẹ kéo áo phao cho con, mấy anh dân quân dạt ra mép, Phúc hạ máy, Khoa ôm hộp, cô My đỡ mấy mảng giấy, ông Trọng xách ống mực vào chòi, con Nụ vẫn ôm bảng, chữ phấn cong méo dưới ánh đèn dầu nhìn thương gì đâu, Thu An dẫn lối vào trong như dắt người vào một căn bếp, nơi có hơi ấm của bếp than, mùi khói và tiếng muôi chạm vào miệng chảo, sân khấu chuyển thành mấy ván gỗ kê cao, đèn trong chòi bật một nấc, khói lá dứa thả thấp, gió ngoài kia vẫn dằn mặt, nhưng trong này như có ai rút bớt gai ra khỏi không khí.

Ông Sáu kéo tiếp câu đờn đang dở dang mà không gãy, dây đờn ôm câu chuyện như người già đỡ tay đứa trẻ tập đứng, cô Ba gõ lại nhịp như cái tim trở về quỹ đạo sau khi hụt, con rồng xanh ẩn nửa mình sau hương khói, hạt cườm trên lưng bỗng như giọt mồ hôi, người rừng trong tích bước chậm hơn một chút, mây tụ muộn hơn một chút, nhưng cảm giác lạ thay lại đằm hơn, vì ai cũng biết ngoài kia gió còn lẩn quất, mà trong này câu chuyện vẫn đi, không ồn, không hối, không sợ, lũ trẻ ngồi nhìn mà không buồn rục rịch, thỉnh thoảng quay sang nhìn bảng “Xin ngồi yên” của con Nụ như nhìn vào một tấm bùa.

Giữa lúc ấy, từ mé cửa chòi, một tiếng rắc khô vang lên như vỏ trứng mỏng bị bóp, anh Hai từ ngoài nước lao vô nhanh như con cá lách qua lục bình, ôm lấy cái chân sào vừa nứt, mặt đen nhẻm vì bùn, mắt sáng như hai hòn than, miệng cười trấn an, bảo bể ở mặt ngoài, trong này đứng, chưa ngã, Tín ngoài thuyền kêu to một tiếng “được”, như báo hiệu nút mới đã ôm vào gốc bần, bà Bảy chỉ nói khẽ hai chữ “hết gió”, rồi đặt tay lên vai con gái, cái đặt tay nhẹ như con chuồn chuồn đậu lên cọng cỏ, như muốn nói “kể tiếp đi”, Thu An nghe, hít một hơi mùi lá dứa, nhìn mặt người, đưa mắt qua ánh đèn, rồi thả bóng mây lên ván như thả một lời xin lỗi với nước, câu chuyện trôi về cuối trong tiếng chập chõa gõ chốt, tiếng đờn cò luyến nhẹ, đèn tắt mỏng, khói rút êm, xong.

Tiếng vỗ tay nổi lên không dày như đêm rằm nhưng đằm, mỗi tiếng như một giọt nước nhỏ xuống lòng đất, Khoa tiến lại gần nói rằng khung hình ngoài kia thôi rồi, khung trong này đủ, anh sẽ không ghép thêm gì, chỉ để một chữ “đủ”, Phúc cất máy, mắt còn ươn ướt như người vừa qua cơn lo, cô My vén tóc, đổ hết mùi ẩm ra cửa bằng cái quạt tay làm bằng lá dừa, ông Trọng mở ống mực, viết bốn chữ treo tạm ngay cửa chòi, nét đen nằm trên nền vải thô mà soi lên gương mặt người đi ra như soi nước, “rành”, “vừa”, “yên”, “nghe”, bốn chữ cũ nhưng ngay đêm này nghe như mới, người làng đọc, mỉm cười, cúi đầu, rút về chậm.

Khi bờ đã thưa, gánh mới ra lại mé phên, mùi bùn hăng bốc lên từ vết nứt vừa trét vội bằng sợi dây ướt, ánh đèn dầu rọi lên làm cái nứt giống một đường mạch máu tím sẫm trên da người, anh Hai ngồi bệt xuống sàn, vuốt tóc, thả tiếng cười mệt, Tín kê lại sào, bó lại bằng kiểu nút mới học, cô Ba vỗ nhẹ mặt đồng như vỗ vào lưng một đứa trẻ vừa nín khóc, ông Sáu đếm lại dây đờn, chấm mút đầu ngón tay bằng nước lá dứa cho thớ tơ mềm, Khoa im, Phúc im, My im, ông Trọng im, bà Bảy im, chỉ có tiếng nước ngoài kia bạc đầu vì gió vừa qua vẫn chưa kịp nằm hẳn, Thu An nắm tay mẹ, hai bàn tay nứt nẻ chạm nhau, mùi khói quấn lấy mùi bùn, mùi lá dứa nằm giữa.

Đêm trễ, gió nguội, trăng ló khỏi mỏm bần như người ngại mặt, ánh rơi xuống mặt sông một vệt mỏng như sợi chỉ treo từ mái chòi buông thõng, Thu An ngồi trên bậc tre, lưng tựa cột, viết vào sổ những điều của đêm nước trôi, chữ nhỏ, hàng dài, không bỏ sót chi tiết nào sẽ hữu ích cho mai sau: chỗ dây nứt, điểm gió bẻ, thời khắc tắt ánh, hiệu lệnh bằng tay, phản ứng của bờ, tiếng thở của đám nhỏ, mùi bùn trộn mùi lá dứa, ánh trăng lấp chỗ đèn thiếu, mỗi dòng chữ giống như một mũi kim khâu chặt hai lớp vải, lớp hiện tại và lớp kinh nghiệm, khâu xong, đường may không lộ, nhưng ai sờ cũng thấy chắc.

Bà Bảy mang ra một chiếc khăn vải đã phơi khô, thả lên vai con gái, bảo mai chặt tre thay cọc, mai lợp lại chỗ rơm mục, mai mượn thêm áo phao để nếu nước còn đùa thì đứa nhỏ vẫn cười, mai gửi lời cám ơn tới nhà ông Trọng vì bốn chữ mực tàu, gửi lời cám ơn Khoa vì mười giây khung đứng yên, gửi lời cám ơn Phúc vì hạ máy đúng lúc, gửi lời cám ơn cô My vì dán hoa văn biết chừng, gửi lời cám ơn Tín vì sợi dây, gửi lời cám ơn anh Hai vì cái lưng, gửi lời cám ơn gió vì dạy thêm một bài, con gái gật, mắt cay, không phải vì mỏi, mà vì thấy ở rìa mắt mình có một vệt nước mỏng, vệt ấy không tuôn, chỉ đứng, như con nước trước ngã rẽ đang nghĩ.

Rạng sáng, trời quang như tấm kính vừa lau, mùi bùn dịu, chim khuyên kêu, đám trẻ đã kéo tới, tay ôm cá lá dừa, chân chạy lạch bạch, miệng hỏi tối qua có sợ không, con Nụ khoe bảng của nó đứng vững, chữ phấn còn nguyên, cả bọn xin được phụ dọn, đứa lượm lá, đứa lau ván, đứa gỡ hoa văn, Thu An giao cho mỗi đứa một việc không nặng mà có ý nghĩa, dạy nó nhìn vào mối dây gãy để hiểu dây cũng biết mệt, dạy nó thắt thử nút trượt bằng dây chuối khô rồi gỡ đúng chỗ, dạy nó dùng mu bàn tay cảm gió thay vì ngửa lòng bàn tay ra, dạy nó ngửi mùi nước trước khi bước xuống, những bài học nhỏ như hạt lúa, rải vào lòng trẻ, tới mùa nào đó sẽ nảy.

Buổi trưa, anh thợ khung sắt ở bến chợ dắt xe qua, mặt ngượng, tay ôm bó dây cáp bọc chống nước, miệng nói lời xin lỗi vì dây giăng ẩu đêm qua, nhà tổ chức đã bị ấp nhắc, anh muốn tự tay gỡ hết phần của mình, muốn gửi bó dây này để cột sào, không phải để chuộc lỗi, chỉ vì đêm qua đứng bên bờ thấy người già không la mà ai cũng im, anh về mất ngủ, bà Bảy nhận, không khách khí mà không nặng lời, nói dây nào tử tế đều nên dùng đúng chỗ, tay khéo thì dây bền, tay ẩu thì dây lìa, anh thợ chắp tay, quay xe, mắt nhẹ hơn một độ.

Chiều, nước đứng yên như người nghĩ trước khi nói, mây trong như lòng chén, gánh ngồi lại bàn chuyện tích “Cá hóa Rồng”, ông Trọng gợi nhịp, ông Sáu thử dây, cô Ba gõ cái đầu tiên nghe như mưa đậu lên tàu lá, Thu An vẽ sơ vị trí ánh cho đoạn cá bơi qua đợt sóng thứ ba, đề nghị dùng phản xạ của nước chứ không đổ đèn mạnh, đề nghị mùi lá dứa thả vào lúc cá chạm mốc để người ngồi bờ nhớ bờ thay vì nhớ đèn, bà Bảy nghe, mắt nhìn ra sông, miệng nói chậm, rằng đêm qua nước đã nhắc, đừng để ánh dẫn câu chuyện ra khỏi ghềnh, cứ để tiếng chập chõa gọi, để đờn cò dìu, ánh theo sau, mùi đi bên, gỗ nói chuyện, bùn chịu nghe, người yên lặng.

Đêm xuống, đèn dầu bật, vệt trăng mới mẻ khác trăng hôm qua, gió lặng như bờ tóc thiếu nữ mới gội, con nước nằm như đứa nhỏ ngủ say, Thu An ngồi ở bậc tre, rót một chén nước lá dứa, chén còn lại đặt ở mép ván cho mẹ, tay đặt lên đường chỉ xanh trên khăn như đặt lên một vết se da mới kéo, mắt nhìn ra mặt sông nơi có sợi chỉ tưởng tượng nối mái phên với vệt trăng, nối bàn thờ Tổ với lưng anh Hai, nối mùi lá dứa với tiếng chập chõa, nối bờ với bờ, sợi chỉ ấy có lẽ đêm nào cũng hiện, chỉ là có đêm sáng hơn, có đêm mờ hơn, như chữ trên giấy viết tay, lúc đậm lúc nhạt, nhưng không mất.

Đêm nước trôi đã đi ngang nhà này như một người khách khó tính dừng lại nhìn thật lâu rồi gật, để lại một vết xước nhỏ trên cọc, một đường nứt mảnh trên phên, một sợi dây mới nối vào gốc bần, một bàn tay rắn thêm, một đôi mắt biết đọc gió hơn, một đứa trẻ đứng vững hơn khi ôm bảng phấn, một chén nước lá dứa thơm hơn vì vừa khấn xong, một câu chuyện kể tiếp được dù mưa dù gió, có lẽ nhờ vậy mà sáng mai, dù ai đó ở thị trấn lại gọi về hỏi đặt suất diễn đúng giờ, ai đó ở thành phố lại nhắn xin làm “phiên bản hoành tráng”, ai đó trên mạng lại bình một câu nửa khen nửa chê, người ở đây vẫn sẽ trả lời bằng những việc nhỏ, cột thêm một nút, khâu thêm một mũi, dạy thêm một đứa, viết thêm một hàng, mài mịn thêm một vảy rồng, nấu thêm một ấm nước lá dứa, thắp thêm một đèn dầu, để đến khi cá hóa được rồng, người ta vẫn nhìn thấy mặt nước trong mắt nó, để đến khi mưa trái mùa ghé, sân khấu có trôi thì cũng trôi trong thế chủ động, không hốt hoảng, không rời rạc, để mỗi câu chuyện kể ra đêm nào cũng có mùi của nhà.

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout