Sáng hôm ấy con nước kéo lên nhanh hơn dự liệu, mé bờ ướt bóng như ai vừa đổ một lớp dầu mỡ, vệt phấn trắng đánh dấu ranh ngồi xem đêm rằm còn in mờ mà đã bị nước lùa qua nửa lóng tay, tiếng dầm của ghe chài đầu bến khua nghe nặng, hơi bùn bốc lên trộn với mùi lá dứa trong nồi nước mẹ đun sẵn khiến gian chòi rối thơm như một gian bếp vừa gỡ nắp nồi xôi, Thu An bưng ấm ra hiên, rót hai chén nhỏ, một chén đặt cho mẹ, chén còn lại cầm tay, ngước nhìn bầu trời đục như mặt nồi đất, nghĩ bụng nếu nước còn lên kiểu này đến chiều sẽ lửng lơ, những kế hoạch treo đèn thử tích “Cá hóa Rồng” phải dời, nhưng dời thì cũng dời trong im lặng, như cách người ở đây dời một bến đậu vì nước xoáy mà không phát loa, chỉ hẹn nhau bằng mắt.
Tín chống mái chèo ghé ngang, chân khập khiễng do hôm trước trẹo nhẹ mà vẫn cố cười, tay giơ bó dây dù mới mua trên chợ tỉnh, bảo coi nút khóa này nè, kéo một đầu thì nó ôm sát, kéo ngược thì nó tự trượt ra, xài chỗ mép phên khỏi lo rít, Thu An nhận bó dây, mân mê từng sợi như sờ một dải tóc ẩm, lòng chợt ấm thêm một chút, bởi trong khi người đời trên mạng nói chuyện “hào quang” thì ở mé bờ sông này có người âm thầm kiếm loại dây phù hợp với nước, với bùn, với tay trẻ con thích tò mò, có người đạp ghe đi hai bến để hỏi đúng loại vỏ bọc chống nước chịu mưa chướng, có người ngồi gỡ từng mối rơm mục trên mái cho không dột khi mưa trái mùa đổ đến bất chợt.
Tin từ phòng văn hóa báo xuống trước ngọ rằng cuối tuần có đoàn sinh viên kiến trúc về khảo sát, đề tài không phải “làm đẹp bờ” theo kiểu tôn nền trải gạch, mà là học cách dựng sân khấu tam thời trên mặt nước mà không làm hư rễ bần, không làm rát mắt cá, không cắm thêm cọc vô tội vạ, nghe xong, bà Bảy chỉ gật, kêu Thu An ghi vào sổ giờ giấc, dặn chuẩn bị mấy ví dụ có thể tháo lắp, mang cả tấm phên loại nhẹ để tụi trẻ thử nhấc, chớ sách vở nhiều trang mà không chạm nước thì chữ trơn như lá chuối, khó dính.
Giữa trưa, khi mây xếp thành từng bè mỏng màu chì, một chiếc xe bán tải dừng trước hàng dâm bụt, cửa mở, bước xuống là một người con trai trạc tuổi Thu An, áo thun đen, balô cồng kềnh, tay ôm chiếc hộp cứng vuông, theo sau là cô My, mặt phấn khởi như người đưa tin vui, cô nói đây là Khoa, bạn học cùng lớp ánh sáng với An, giờ làm phim tài liệu, xin về làng xin phép quay một đoạn bộ phim ngắn về rối nước ngoài sông, còn chiếc hộp kia chứa máy bay nhỏ dùng quay từ trên cao, nghe đến chữ “bay”, bà Bảy hơi nhíu mày, không vì sợ cái mới, mà vì sợ gió ở bờ sông trêu đùa thứ có cánh, chỉ cần một cú giật, cánh quạt rơi xuống mặt nước, người bên bờ nhốn nháo, tiếng chập chõa đứt, tiếng đờn cò hụt, cả bến mất yên.
Khoa cúi đầu chào, giọng miền Tây pha xíu âm Sài Gòn, nói sẽ bay cao vừa đủ để thấy bức tranh lớn, không sà sát, không lượn trên đầu người, không bay lúc gió nổi, không chấm xuống mép nước, chỉ xin một khung hình lúc hoàng hôn để lấy bóng phên đổ trên sông, thêm mười lăm giây lúc đèn dầu bật cùng mùi lá dứa bốc lên, rồi anh chìa ra tờ giấy cam kết an toàn do đoàn phim soạn, kèm theo giấy phép bay khu vực dân cư, đọc xong, Thu An thở nhẹ, nhưng vẫn quay sang hỏi mẹ, ánh mắt mong được dấu mốc, bà Bảy không trả lời ngay, bưng ấm nước rót thêm một chén, uống một ngụm, kể một câu chậm, rằng cách đây mấy năm ở chợ nổi bên kia có người thả máy bay nhỏ, gió chướng bạt ngang, máy rơi xuống đám trái cây trên ghe, không ai bị cắt trúng, nhưng cả chợ hãi, người bán trái cây mất bữa, người qua lại quay đầu, tiếng rao đứt, nước không còn giọng thường ngày, nói tới đó bà ngừng, nhìn Khoa, bảo nếu muốn quay, hãy học cách nghe nước trước, học cách tắt máy ở nhịp thứ mấy, học cách dời khỏi khung hình khi con chim thật bay đến, học cách để trăng thay cho máy lúc trăng quyết rọi, Khoa nín lặng, rồi gật đầu, mắt bỗng dịu xuống như một tảng mây nhận ra chiều đã tới.
Buổi chiều bắt đầu bằng việc thử sợi dây mới của Tín ở mé ngoài, anh Hai cầm đầu dây, Thu An giữ công tắc, Tín đứng thẳng lưng trên thuyền câu, ánh nắng lọt qua kẽ dừa nước rơi lên vai ba người những vệt dằn dịu, họ cột dây theo kiểu lót nút, kéo thử cho đến khi sợi dây hót tiếng khô dưới tay mà không làm phên rung, bà Bảy chống tay ở bậc hiên, mắt theo dõi mọi động tác, miệng nhắc mấy câu nhỏ nhưng dài, như “kéo ở nhịp thở chớ không kéo ở nhịp mạnh”, như “đặt lực vô đúng chỗ chớ đừng đặt vô phần mối nối”, những câu tưởng chừng giản dị ấy chính là ghi chép sống của nhiều năm đứng dưới nước, thứ ghi chép không có trang, không có số, không có mục lục, nhưng chỉ cần lặp lại, tay sẽ nhớ.
Khoa đứng xa, quan sát bằng mắt thường, chiếc máy bay vẫn nằm yên trong hộp, anh hỏi Thu An có thể cho anh ngửi thử mùi lá dứa ngay lúc khói vừa bốc không, Thu An gật, bốc một nhúm lá, vò nhẹ, đặt lên miệng lò đất, ngọn lửa nhỏ liếm vào mép, khói xanh lên đủ nhìn thấy ở độ nghiêng nào đó, Khoa nhắm mắt, hít một hơi, rồi mở mắt mỉm cười, bảo mùi này mới là tiếng mở đầu, tiếng máy chỉ là tiếng chú thích, câu nói rơi vào khoảng hiu hiu của buổi xế, nghe xong, cô My khẽ gật, hai tay ôm tập giấy hoa văn như ôm vạt áo, Phúc từ đầu bờ bước đến, đưa mấy trang giấy in bình luận mới nhất, khen có, góp ý có, chê bai cũng không thiếu, phần lớn vẫn xoay quanh câu “đèn ít quá”, Phúc nói nhỏ rằng cứ làm như đã làm, đoạn phim của Khoa nếu lên sóng, anh sẽ đặt tựa thật ngắn, không gài chữ giật gân, giữ cho người ta đến bằng tò mò chậm, rời khỏi màn hình bằng thở dài nhẹ nhõm.
Hoàng hôn xuống như lớp mật mỏng bôi lên mặt sông, sinh viên kiến trúc chưa đến, nhưng bờ đã có vài người khách lẻ tới hỏi thăm, có cô giáo trường cũ của Thu An dẫn đám học trò ngồi xa xa tập “ngồi yên”, có ông Trọng đội nón, tay cầm một ống tre bít hai đầu chứa mực tàu, bảo tối nay ông muốn viết mấy chữ tặng gánh để treo tạm, chữ nào cũng lọt qua một đêm trầm tư, Thu An bảo chữ “nghe” có lẽ cần treo chỗ người hay nói, chữ “rành” treo chỗ người hay vội, chữ “yên” treo chỗ người hay bứt rứt, ông Trọng cười khe khẽ, đặt ống tre lên bàn tre, rồi bảo lát nữa ông sẽ ngồi ở cửa chòi, nghe dây nói, nghe mùi nói, nghe tiếng nói của chỗ không tiếng.
Khoa mở hộp, đặt chiếc máy lên tấm ván, ánh đèn nhỏ trên thân máy chớp nhịp, một con đom đóm tình cờ bay đến đậu lên cánh, nhìn như một dấu chấm nhỏ trên trang giấy, anh khựng lại, thở ra, bảo thôi để lát, đom đóm đi đã, cử chỉ nhỏ ấy làm Thu An nhìn khác đi, trong khoảnh khắc ấy, cô thấy một mối có thể buộc giữa kinh nghiệm sông rạch với những đồ nghề sinh ra ở thành phố, miễn người cầm đồ nghề chịu cúi xuống lắng nghe.
Đúng lúc ánh trời rót xuống thành một dải mỏng trên mé nước, gió bỗng nổi lên một nấc nhẹ, mặt sông lăn tăn như da gà, tấm phên ngoài cùng rít một tiếng nhỏ do sợi dây chạm vào cạnh tre, Tín liền cúi người, nới dây, kéo lại theo nhịp thở, Thu An hạ đèn một phần ba, cô My giữ mấy mảng giấy hoa văn khỏi bị gió lật, Khoa đóng nắp hộp, không bay, Phúc hạ máy ảnh xuống, ông Trọng đặt ống tre sang một bên, ngồi thẳng, nghe, không ai bảo ai, một nhịp yên được dựng lên mà không cần khẩu lệnh, y như một chiếc cầu nhỏ bắc qua một con rạch hẹp chỉ bằng vài cây chà tre lót ngang, ai đi cũng cảm được, ai đứng cũng vững lòng.
Gió qua, nước dịu, con đom đóm bay khỏi cánh máy, Khoa ngước nhìn trời, hỏi có thể xin mười giây hút lên để lấy cái nhìn cao chớp một cái lúc trăng tráng men mép đọt bần, bà Bảy nhìn con gái, Thu An gật, nhưng nói chờ nhịp chập chõa mở, khi cô Ba gõ tiếng thứ hai, máy mới rời mặt ván, khi tiếng thứ ba vang ra, máy đã đứng ở điểm an toàn, khi tiếng thứ tư chuẩn bị gõ, máy phải đứng im y một chỗ như trăng đứng, Khoa nghe, làm theo, máy lên êm như một con chuồn chuồn nước, cánh quay mỏng tiếng, âm thanh không phá nổi mùi lá dứa, không chèn nổi tiếng đờn, không lấn nổi tiếng nhịp gõ, chỉ đứng xa, ghi lại một đường ánh vàng quấn quanh mái phên, mười giây đủ, máy hạ xuống, người bờ không ai quay đầu, sự có mặt của nó nhẹ đến mức chỉ còn là một dấu phẩy trong câu chuyện dài.
Đêm ấy, sau buổi thử ngắn, bà Bảy trải tấm khăn có đường chỉ xanh lên bàn thờ Tổ, châm nén nhang, khấn một câu nhẹ như đặt một hòn đá dưới chân sào, xong xuôi, bà gọi Thu An ra hiên, giọng nhỏ mà chặt, rằng nước đang chuyển, mấy bữa nữa sẽ lớn thiệt, chòi rối dù cột bao nhiêu dây cũng chỉ là thứ biết trôi, con tính chuyện “Cá hóa Rồng” cho mùa tới, nhưng nhớ ràng buộc cái mới bằng cái nếp cũ, đừng để con cá chỉ biết hóa vì ánh đèn, hãy để nó hóa vì hơi thở, vì nhịp chập chõa hô lên một nấc rồi hạ xuống một nấc, vì tiếng đờn cò gối vào đúng khoảnh khắc nước nín thở, nghe xong, Thu An không nói, chỉ gật, mùi khói nhang lẫn mùi lá dứa, cả hai thứ ấy ôm lấy lồng ngực như một chiếc áo mỏng ấm.
Khuya hơn, sinh viên kiến trúc tới trễ do kẹt phà, mấy khuôn mặt trẻ ngơ ngác giữa bóng đèn dầu vàng mỡ gà, Thu An không giảng lý thuyết dài dòng, chỉ đưa tay chỉ ra mặt sông, bảo đứng yên năm phút nghe cho rõ nước rì rầm dưới phên, bảo sờ tay lên sợi dây néo để thấy gân tre rung như thế nào khi gió hắt qua, bảo hít một hơi mùi bùn nhẹ như thuốc mỡ bôi lên vết xước, rồi mới cho nhấc tấm phên, mới cho buộc nút, mới cho mở nắp lò đất thả một nhúm lá dứa, bọn trẻ ban đầu bối rối, sau chậm lại, mắt dịu đi, có đứa còn ghi vào sổ “dựng mà giống như ru”, ông Trọng ngồi bên, mỉm cười, mở ống tre, viết mấy chữ bằng mực tàu, đặt cạnh nến, nét đen nằm trên nền vải thô nghe mềm như nước.
Rạng sáng, mây tản ra, nước rút nửa gang, bờ hiện rõ những dấu chân tối qua, Khoa đem đoạn phim mười giây ra cho cả nhà xem, không ghép nhạc, không dán chữ, chỉ để tiếng chập chõa ở xa, để mùi lá dứa thoáng qua rồi mất, trong khung hình có mái phên như miếng bánh ít lá gai nằm nghiêng, có vệt đèn vàng mỏng như sợi tóc, có trăng như cái vỏ hến lật ngửa, có mặt sông phẳng như vạt áo vừa là ủi, bà Bảy xem xong không khen, không chê, chỉ nói đừng để người ta nghĩ rằng chuyện này làm bằng máy, con cứ để mùi đi trước máy, người sẽ tin, Khoa gật, nói anh sẽ đặt tên phim ngắn bằng một cụm chữ ít chữ, không hứa hẹn gì ngoài một chỗ ngồi yên.
Ngày kế tiếp trôi như một con thuyền không vội, có lúc mưa đứng bóng đổ ập trong năm phút rồi tan, có lúc gió nao lòng như câu vọng cổ lỡ nhịp, có lúc nắng xòe trên vạt cỏ, có lúc bầy đom đóm nhen lên rồi tắt, những việc nhỏ vẫn nối nhau như sợi chỉ lẩn dưới mặt vải: thay một mối dây, đệm một miếng ván, viết thêm một dòng kịch trình bằng tay, dạy bọn trẻ gỡ nút bằng hai ngón cái, sửa lại vị trí ghế tre để người xem lưng bớt mỏi, ghé nhà chú Bảy Còng trả lại áo phao đã phơi khô, nhắn trưởng ấp rằng nếu nước dâng quá vạch thì dời suất diễn vào chòi, tất cả những chấm nối ấy hợp thành một chữ lớn hiện dưới đáy nước, chữ ấy không viết bằng mực, không viết bằng sơn, chữ ấy hiện bằng hơi của người làng, bằng nhịp của tiếng chập chõa, bằng mùi lá dứa dịu đi sau khi bùng, chữ ấy đọc lên nghe như một lời nhắc ngầm: cứ rành, cứ vừa, cứ yên, cứ nghe.
Chiều xuống lần nữa, con nước làm bộ đùa giỡn nhưng cuối cùng cũng ngoan, đứng lại ở mức không gây lấn lướt, bờ dâm bụt ướt rì, chim tu hú kêu xa, Thu An ngồi bậc tre, nhìn sang Tín đang lội ra mé, tấm lưng nâu nổi dưới nước như một thửa ruộng lộ vào đầu mùa, cô bỗng nhớ một đoạn thơ học dở dang từ thời cấp hai, câu thơ nói về việc con người trả ơn đất bằng cách đi chậm, xới nhẹ, gieo vừa, gặt vừa, không hối, cô không nhớ hết, nhưng ý thì còn, mang ý đó đặt vào chỗ mình ngồi, thấy câu chuyện phía trước rõ hơn một chút, thấy ngã rẽ không gấp, thấy chữ nợ trên mặt nước không đòi bằng tiếng, chỉ đòi bằng tay, bằng lưng, bằng hơi thở.
Đêm đến, chòi rối lên đèn dầu, gió hiu đủ làm bấc nghiêng, mùi khói nhẹ quấn quanh, bà Bảy gấp chiếc khăn có đường chỉ xanh, đặt lại ngay ngắn, Thu An thắp nhang, Khoa đóng máy ngủ, cô My xếp hoa văn vào ống, Phúc hẹn sáng mai in mấy tấm ảnh gửi lại mấy nhà lân cận, ông Trọng cất ống mực tàu, dặn chừa cho ông một chỗ treo chữ “yên” đúng tầm mắt, Tín kê lại mái, anh Hai thả xuồng xuống nước kiểm tra cọc, cả bờ thở đều như một người ngủ sâu, ngoài kia con nước lên xuống theo lịch trời, trong này gánh rối sống theo lịch của tay, của mắt, của mũi, của tai, của mồ hôi, lịch ấy không viết được lên tường, nhưng viết được lên người, cho nên dẫu mai nước lớn, dẫu mai gió chướng, dẫu mai có đoàn khách bất chợt, dẫu mai có điện thoại đòi “đóng gói”, người ở đây vẫn biết cách đứng, biết cách rút, biết cách thả, biết cách cười nhẹ, biết cách từ chối mà không bất lịch sự, biết cách nhận mà không nuốt trọn, biết cách kể rành một chuyện cũ theo một giọng mới không làm người cũ giật mình.
Trên trời, trăng mòn một góc như cái nia gạo đã vơi, dưới sông, một con cá bạc lưng quẫy nước để lộ một vệt sáng nhỏ, trên bờ, tấm bảng “Xin ngồi yên” con Nụ ôm mấy bữa nay còn mùi phấn, chữ cong méo nhưng đọc lên thấy thương, Thu An đưa tay ra không khí, vẽ một sợi chỉ nối từ mũi ghe của Tín đến mép phên, từ mép phên đến bàn thờ Tổ, từ bàn thờ Tổ đến vệt trăng, sợi chỉ ấy không cần ai khác nhìn thấy, chỉ cần nó nằm đó như một lời hẹn, rằng khi nước lớn gặp ngã rẽ, gánh sẽ đi theo đường nhà, đường có bùn, có mùi, có tiếng, có ánh, đường không thẳng như dây điện, nhưng đến đâu cũng gặp người, mở miệng ra là chào, khép miệng lại là êm.
Bình luận
Chưa có bình luận