Buổi sớm sau chuyến diễn ở huyện, khi mặt sông Hậu trải ra như một tấm lụa nâu đã được bàn tay mưa đêm ủi phẳng, Thu An mở cửa chòi rối trong mùi lá dứa còn sót lại từ nồi nước mẹ đun tối qua, rồi chậm rãi bước trên sàn gỗ đã khô, nghĩ đến những khuôn mặt người thành phố vỗ tay không nhao nhao mà dày như lớp phù sa đọng ở mé bờ, đồng thời lại thấy ở nơi đáy ngực mình chảy qua một dòng nước khác, vừa mát như bóng dừa đầu bến vừa nóng như than bếp, vì vui mừng thì có đó mà lo sợ thì cũng lẩn khuất theo, bởi lẽ cứ mỗi lần tiếng tán thưởng đến gần, gánh rối lại đứng trước việc phải lựa chọn xem điều gì nên giữ nguyên như vết dao khía trên thân gỗ để nhớ, điều gì có thể mài mịn để người khách lạ dễ chạm tay, còn điều gì, dẫu ai năn nỉ cũng đành khoanh lại như một vùng cấm địa nơi bờ bùn mềm, để không lún.
Bà Bảy từ hiên nhà bưng ra rổ dây chuối khô, trên tay vẫn dính một vệt bột gạo do vừa gói xong mấy đòn bánh tét nhỏ định chia cho đám trẻ, nói với con bằng thứ giọng trầm đã dìu dặt qua bao mùa nước nổi rằng đời người học nghề như chèo một chiếc ghe trước cửa nhà, ngày ròng thì buộc, ngày lớn thì thả, còn khi nước lửng lơ kiểu chẳng chịu xuôi cũng chẳng muốn ngược, thì chỉ có cách ngồi yên mà ngó, chờ một tiếng gió thật sự chạm vào vai; nghe vậy, Thu An gật đầu, gom những mảnh giấy dầu cô My đã phơi khô, kẹp lại thành một xấp, cất lên cao, vì nó biết ơn những hoa văn đó như biết ơn mùi lá dứa, nhưng nó cũng hiểu mọi thứ chỉ nên xuất hiện lúc cần, hệt như đốm đom đóm ở bờ cỏ, chỉ sáng khi sẫm đủ, chứ không phải lúc nào cũng rọi.
Tin nhắn của Phúc gửi về ngay sau bình minh, báo rằng đoạn video ngắn hôm diễn ở huyện vừa lên mục văn nghệ chiều, bình luận chia hai luồng, người thì khen “nước mùi”, kẻ lại giục “thêm ánh mạnh cho đã mắt”, kèm theo lời nhắc khéo là một công ty lữ hành nọ ngỏ ý đưa khách quốc tế xuống xem nếu gánh chịu “đóng gói” suất diễn đúng khung giờ, có loa dịch thuật và ánh sáng đồng bộ, điều kiện nghe qua tưởng dễ mà nghĩ kỹ thấy ngổn ngang như bãi bần sau lũ, bởi một khi đã “đóng gói” thì mọi ánh chớp, mọi nhịp chập chõa, mọi tiếng đờn kéo dài hay nén lại đều phải đúng kịch bản, trong khi rối nước đứng trên vai con nước chứ đâu đứng trên sàn bê tông, cho nên mỗi đêm, chỉ riêng gió đã khác, nói gì đến hơi thở của khán giả, đến lòng kiên nhẫn của trẻ con, đến sự nhích lên hoặc lùi xuống nửa lóng tay của mực nước ngay mép phên.
Cả buổi trước ngọ, người làng ghé chòi đông mà không ồn, kẻ đem bó lá dứa tươi còn vương sương, người cho mớ tre già thân thẳng, một ông lão xóm trên lặng lẽ đặt lên bàn thờ Tổ một túi nhỏ đựng hạt cau khô thơm ngai ngái, rồi khẽ bảo “cúng cái mùi”, bởi theo ông, hương là thứ đi trước lời, nghe xong, Thu An chợt thấy trong đầu mình bật lên một vệt sáng mảnh như sợi kim xuyên qua hai lớp vải, nghĩ rằng nếu có lần nào còn làm tích Mộc Tinh, nó sẽ để mùi lá dứa mở lối từ thật xa, nhẹ như tơ quấn, để khách còn chưa thấy đèn đã nhận ra quê, dẫu quê ấy có khi chỉ là một ký ức không tên nằm trong ngăn mũi người thành phố.
Đến xế, một chiếc xuồng ba lá lù lù ghé bến, trên xuồng chở theo hai bao bố mềm, mở ra mới biết là sơn ta cùng mấy màu bột do người bạn của ông Trọng gửi tặng, kèm bức thư viết tay khuyên rằng sơn ta phơi nắng hiền, tránh nắng gắt, khi chấm nên nghe gỗ nói, đừng ép, đừng dày, đừng vội, bởi lớp bóng tốt không phải lớp bóng dày, mà là lớp bóng để thớ gỗ thở như ngực người ngủ, đọc đến đó, bà Bảy khẽ cười, nói thầy đời ở đâu cũng dạy cùng một chữ chậm, rồi lựa con rồng đang sứt một mép vảy mà đưa lên bàn, tự tay chấm từng hạt màu xanh như nước bạc rót mỏng, để khi ánh đèn lướt qua, lưng rồng không chói, chỉ ươn ướt như vừa trồi khỏi mặt sông.
Tưởng đâu ngày sẽ trôi êm như chiếc ghe thả lưới ở khúc nước sâu, ai dè chập chiều, anh Hai Đực hớt hải chạy về với cái ống thép gỉ cầm trên tay, bảo vừa dưới bến phía ngoài phát hiện người ta dựng tạm khung sắt làm sân khấu cho hội chợ tuần tới, cọc lớn đóng sát đường nước, dây điện giăng qua đầu như mạng nhện, nguy nhất là bóng đèn cao áp lủng lẳng ngay mỏm bần, gặp mưa dông thì khác gì gọi bão, mà gặp đêm yên thì ánh trắng ấy sẽ lấn hết ánh vàng của gánh, nghe xong, Thu An bỗng thấy trong lồng ngực một con chim đập cánh, không phải vì hoảng, mà vì giận, bởi những thứ đi mượn từ nơi khác khi đem về sông rạch thường quên hỏi nước, thành ra nó hối mọi người thu xếp, rồi cùng bà Bảy, anh Hai, Tín chèo ghe ra nói chuyện, nắng nghiêng xuống thành một dải mật sẫm, mặt nước thở gấp theo nhịp chèo, tiếng mũi ghe chạm vào bóng bần nghe mềm như người gõ cửa nhà quen.
Người phụ trách khung sắt là một anh thợ trẻ từ thị xã chạy xuống, áo phông loang mồ hôi, tay cầm búa, khi nghe bà Bảy nói rằng dây điện giăng qua vai nước như thế là hư, anh thoạt ngạc nhiên, rồi cười xuề xòa, viện lẽ lịch diễn gấp, vị trí “đắc địa”, sợ dời thì khách không thấy, lúc ấy, bà Bảy không hẳn nạt nộ, chỉ kể một hơi rất dài về những mùa gió chướng đập thẳng vào mép bờ, về con nít ngồi xem mà chân đạp thình thình, về những đêm mưa trái vụ kéo tới bất ngờ, về tiếng dây néo kẽo kẹt rồi im, và về lời hứa với Tổ là làm gì cũng để nước nói trước, người nói sau, nghe xong, anh thợ trẻ có vẻ dịu xuống, nhưng vẫn ậm ừ bảo “em đâu tự quyết”, thế là Thu An lôi trong túi ra bản vẽ sơ bộ dòng người, luồng gió, vị trí neo ghe, chỉ từng mũi tên như chỉ lối trong mê cung, giải thích nếu dời khung sắt lên bờ cao hai trượng, ánh điện kia không còn chiếu thẳng xuống nước, khách vẫn thấy, mà sông thì thở được, sau một hồi gọi qua gọi lại, người quản lý đồng ý nhích, anh thợ trẻ cười to, bảo “thôi chị nói dai mà đúng”, cả ghe nhẹ hẳn, nước dưới mũi ghe như trơn hơn.
Trở về, khi mặt trời đã trượt xuống sau hàng bần, gió từ đồng xa ùa về mát như bàn tay mẹ vuốt tóc con, Thu An đứng trên mái phên nhìn về phía vàm, nghĩ tới lời mời “đóng gói” của công ty lữ hành, tới cái khung sắt vừa dời, tới ánh trắng treo như giọt nước chưa rơi, rồi bỗng thấy chữ “nợ” nổi lên trong đầu như một chữ khắc nông trên thớ gỗ, nợ Tổ vì đã cho một đêm rằm yên, nợ làng vì đã đem ghế, trải chiếu, neo ghe, giữ im, nợ những đứa nhỏ vì đã ngồi chép theo chữ “vừa”, nợ gió vì đã bớt tay khi định quất, và nợ chính con nước vì đã cho mượn vai, mà đã là nợ thì phải trả, nhưng trả theo cách của sông, nghĩa là trả bằng việc cột thêm một nút, thay thêm một dây, dạy thêm một đứa, viết thêm một hàng chữ rành.
Khi đêm buông xuống như một cái mền mỏng, chòi rối sáng bằng đèn dầu, tiếng ếch kêu từ ruộng xa ghe về từng chặp, Thu An ngồi bên bàn, mở cuốn sổ lớn đóng chỉ xanh, viết một kế hoạch dài hơn mọi bận, trong đó có những mục không ai thuê cũng làm, như luyện lại thủ pháp tắt đèn trong ba nhịp thở để nếu mưa lỡ chạm mái còn rút kịp, soạn một “bản đồ mùi” trong đó mùi lá dứa mở lối, mùi dầu bóng kết, mùi bùn là trục, thử một đàn đóm bằng đèn dầu nhỏ giấu dưới dầm để đêm nào trăng mờ thì vẫn có ánh sống, đồng thời ghi một danh sách mượn người trong xóm làm “mắt nước” đứng rải dọc mé bờ để báo gió, mỗi mục đều gạch dưới bằng một nét bút máy mảnh, mực tràn vừa đủ thấm, không lem.
Sáng kế, cô My ôm xấp giấy đến với một ánh nhìn bối rối hiếm gặp, nói rằng thầy hướng dẫn ở trường vừa góp ý luận văn của cô chưa “sáng” đủ, gợi ý đưa nhiều mảng đồ họa đậm hơn vào sân khấu, thậm chí đề nghị vẽ lên cả đầu rối cho “ăn ảnh”, lời ấy như một viên sỏi rơi trúng mặt nước êm, tạo ra những vòng tròn loang loáng, khiến Thu An thoạt quặn người, nhưng vẫn lựa lời, kể rằng đầu rối như mặt người, đã có nếp nhăn ở khóe, có vệt sơn phai như những vết nắng, nên vẽ thêm không khác mời người lạ đến kẻ mày tô môi, đôi khi đẹp dưới ống kính mà xa lạ với người ngồi bờ, cô My cúi đầu, bảo cô hiểu, nhưng cũng không thể cãi thầy, thế là Thu An đề nghị một con đường ở giữa: để cô thử hoa văn lên phên, lên mái, lên dầm, lên nước, chỗ nào là “da” của nhà thì giữ, chỗ nào là “áo” thì may, rồi rủ cô ở lại thêm tuần lễ, vừa làm vừa ghi chép, cô My ngẩng lên, nụ cười trở lại như một vệt nắng rót qua tàu lá bần.
Đến trưa, ông Trọng mang theo một xấp giấy chép tay đã đóng ghim, trên cùng đề “Kịch trình Mộc Tinh - bản thử nghiệm đọc cho người học việc”, bên dưới là những chỉ dẫn viết bằng giọng mộc mà nghiêm, chẳng hạn “khi tiếng chập chõa hạ một nhịp, ánh còn nửa hơi, đờn cò nén luyến”, hoặc “bước chân người kéo rồng đặt vào mạch sóng thứ ba kể từ mép”, hoặc “mùi lá dứa thả trước câu mây tụ”, đọc lên nghe như sách dạy nấu canh chua, bao nhiêu me, bao nhiêu đường, bao nhiêu muối, nhưng ai nấu cũng phải nếm, bởi cái “vừa” thay đổi theo lửa lớn hay nhỏ, theo nước mưa hay nước trời, theo trái bần già hay non, cả gánh xúm lại đọc, có đứa nhỏ chen vô nhìn chữ mà hỏi đọc làm sao, bà Bảy chậm rãi đánh vần cho nó, bảo chữ tuy đen mà có hơi, thổi vào giấy nghe được.
Buổi chiều, khi gió từ ruộng lùa qua hàng dừa nước làm những lá mỏng kêu lao xao, trưởng ấp đem tới một tờ giấy đóng dấu đỏ, trong đó ghi công ty lữ hành vẫn muốn đặt một “gói” cố định vào cuối tháng, hứa hẹn sẽ đem giàn ánh, đem loa, đem cả thuyền trang trí, đổi lại in logo lên phên, đồng thời trả một khoản đủ để lợp mái mới, mua dây mới, sửa sàn, đọc đến đó, mấy người trong gánh thoáng chao như chiếc ghe gặp con nước ngược, bởi ai cũng thừa hiểu mái lá cần lợp, dây cần thay, phên cần vá, nhưng nếu nhận, tức là chấp nhận để nước đi theo lịch, mặt sông trở thành mặt sàn, gió chướng biến thành quạt, và mùi lá dứa không còn là mùi mà là “hiệu ứng”, một lúc rất dài sau, bà Bảy đặt giấy xuống, xoa nhẹ đường chỉ xanh trên mép khăn bàn thờ Tổ, ngẩng lên, nói một câu không cao giọng mà ai nghe cũng thấu tận rốn nước: “Cái gì mua được thì để mai hẵng mua, cái gì bán đi rồi không về thì coi chừng bán lố.”
Đêm đó, Thu An nằm trên bộ ván mà mắt không chịu nhắm, nghĩ tới đám đèn cao áp đã dời nhưng vẫn còn treo ngoài bến chợ, nghĩ tới những chiếc điện thoại giơ lên rồi hạ xuống ở công viên, nghĩ tới tiếng thở đồng đều của bờ làng đêm rằm, rồi nghĩ tới những mùa mưa xô dọc theo lịch trời, và bất giác đưa tay vào khoảng không trước mặt vẽ một sợi chỉ mảnh nối hai bờ, buộc một mối vào chữ “nhịn”, một mối vào chữ “đủ”, thêm một mối vào chữ “ơn”, tự nhủ mai sẽ khước từ gói diễn kia bằng một bức thư không lỳ, không mềm, chỉ giải thích rằng gánh kể lúc nước cho, còn nếu muốn theo lịch thì mời xem ở nơi khác, bởi mỗi bờ có một nhịp tim, ép đập khác nhịp thì mệt.
Sáng hôm sau, trời rền rền mây thấp, như một cái nồi đậy vung sành hãm sôi, nước đứng nín thở, bờ cỏ rịn ướt, trong chòi, Thu An đun một ấm nước lá dứa, rót hai chén, đặt một chén trước mặt mẹ, chén còn lại trước mặt mình, rồi đọc cho bà nghe từng dòng bức thư trả lời công ty lữ hành, trong đó nó cảm ơn, kể ngắn về con nước, về nhịp chập chõa, về mùi, về ánh đi sau tiếng, về quy ước “rành - vừa - yên - nghe”, về nguy cơ dây điện lấn mặt sông, và về điều không đổi là lời khấn trên bàn thờ Tổ, nghe xong, bà Bảy gật một cái thôi, cái gật như đóng thêm một cây cọc tre ở mép phên, không chát mà chắc, bảo con ký tên, gửi, rồi quay ra hiên, lấy khăn trắng treo lên đinh tre, phơi một vệt nắng rất mỏng.
Chưa kịp gửi, nước trên bến chợ phía ngoài bỗng dâng một góc, tiếng người xôn xao vọng vào như tiếng cá kình đập đuôi, hóa ra khung sắt hội chợ, dẫu đã dời, vẫn giăng dây ẩu, trời chớp đâu đó phía rừng, một đường điện “rít” lên như con rắn, người ta hoảng, xô nhau chạy, có đứa nhỏ vấp ngã, may thay không sao, nhưng cả bờ rối bời, Phúc nghe tin chạy tới, cầm máy mà không dám đưa lên, vì không ai muốn ghi lại hình ảnh nước bị đối xử như mặt sân, cả gánh tự nhiên thành một đội cứu bờ, không ai gọi mà ai cũng làm, anh Hai bấm dao cắt phăng mấy đoạn dây thõng xuống, Tín cột lại lối đi, cô Ba mượn loa tay của chị Nhị nói từng câu dài mà ấm “xin đi bên trái”, “xin đừng chen”, “xin đừng bước xuống mép”, ông Sáu kéo ba tiếng đờn trầm như gọi người về, Thu An gọi điện cho quản lý hội chợ, giọng không cao mà không nhún, bảo “điện với nước không chơi chung được”, bên kia ậm ừ, bên này thì đã dọn xong, người ta lặng dần, nước thở ra như vừa thoát một chiếc áo dày, mùi ẩm lùi lại sau bãi bần, mùi lá dứa trong chòi theo gió mà thong thả trở về.
Khi mọi thứ yên, Thu An mới gửi bức thư, kèm thêm một dòng tay sau cùng rằng gánh sẵn sàng hướng dẫn bất cứ ai muốn làm sự kiện trên bờ sông học cách nghe nước trước khi giăng dây, coi khói trước khi bật đèn, chờ gió trước khi dựng phông, không phải để khước từ cái mới, mà để cái mới biết đứng ở đâu, giống như khi cô My dán hoa văn, chỉ dán lên “áo”, còn “da” thì chừa, bởi trong mọi cuộc chạm tay giữa hiện đại và bùn nước, điều cần hơn hết không phải là vỗ tay, mà là thở cùng nhau.
Những ngày kế tiếp, mưa trái mùa ghé rồi đi như người khách quen, nhắc cả gánh rằng mùa lớn chưa hẳn đến, ròng chưa hẳn lui, nên việc gì cũng hãy cột thêm một nút, khâu thêm một mũi, dạy thêm một đứa, viết thêm một hàng, Thu An dành buổi chiều cho lớp nhỏ, từ con cá lá dừa chuyển qua con chim giấy dầu, rồi đến một chiếc thuyền con bằng bẹ chuối gắn sợi dây nhỏ ở đáy để khi kéo thì thân thuyền rung lên như gặp lăn tăn, đứa nào cũng reo, nhưng nó không quên dạy tháo nút trượt bằng hai ngón tay, dạy cách quấn dây không thắt cổ mạch, dạy khi thấy bạn sẩy chân thì không cười, dạy khi nghe tiếng “rút” thì ngồi im, mỗi bài học kéo dài hơn một hơi thở, tụi nhỏ học chậm mà nhớ, tối về, đứa nào cũng đem đồ nghề mượn về nhà mà hứa sáng mai trả, coi vậy mà bó bẹ dừa vẫn đủ, vì ai cũng giữ.
Một chiều vắng, ông Trọng ngồi dưới hiên chòi ngó ra sông, nói khẽ như tự sự rằng ông thấy gánh đang quệt chữ “nợ” lên mặt nước bằng thứ mực không phai, mực ấy là hành động, không phải lời, là từ chối những cái sáng rỡ mà rỗng, là nhận những cái chậm mà đầy, là chịu bị nói “cổ” để giữ lại tiếng thở của bờ, là nhận lấy việc chép tay dài hơn gõ máy, là mang đèn nhỏ thay đèn to, là đem đứa bé lại gần thay kéo sân khấu xa, Thu An nghe, thấy trong họng có một cục ấm như miếng đường thốt nốt mẹ thường chẻ, rồi nhìn qua mẹ đang vá lại một chỗ rơm mái, sợi kim lên xuống đều như nhịp nước, bỗng hiểu ra rằng cái chữ “vừa” mà mẹ dạy chính là cách trả nợ êm nhất, bởi ai cũng có nợ với nhau, nợ cơm, nợ nước, nợ tiếng, nợ hơi, chỉ có điều trả ầm ầm thì thành ơn, trả rón rén thì thành nghĩa.
Đến khi hoàng hôn nghiêng xuống, bầy đom đóm bật lên từng đốm, tiếng chập chõa cô Ba thử nhịp đâu đó trong chòi nghe như trái tim tập thể đang nhớ lại tiết điệu của rằm trước, Thu An đứng ở mé bờ, thả mắt trên sông, nơi những sợi lăn tăn li ti chạy như đường chỉ ngang, nó nghĩ đến tích “Cá hóa Rồng” mà ông Trọng khuyên chỉnh nhịp, nghĩ đến cách để con cá bơi chín đợt sóng không nhờ pháo sáng mà nhờ ánh phản của mặt nước, nghĩ đến chỗ thả mùi đúng vào hồi cá dừng hít một hơi, nghĩ đến đêm nào trăng mỏng thì mượn đèn dầu giả đom, đêm nào trăng dày thì tắt đèn, nhường ánh trời, nghĩ đến cái ngày mang rối vào trường, bọn trẻ sờ gỗ mà cười, nghĩ đến khung sắt vừa dời, đến bức thư vừa gửi, đến gói “đóng” vừa từ chối, rồi thấy rõ ràng như thấy vệt bạc của trăng trên mặt sông rằng gánh đã chọn một con đường không ráo chân, phải lội, phải lạnh, phải nghe, nhưng bù lại, mỗi bước đi, đất dưới chân mềm ra, nước dưới chân ấm lên, mắt người bên bờ sáng một thứ sáng không đèn nào cho.
Đêm khuya, khi trong làng chỉ còn tiếng mái chèo muộn khua khẽ và mùi bếp than của một nhà nào đó chưa tắt, Thu An đặt cây bút máy bên cạnh cuốn sổ, chạm tay vào đường chỉ xanh mép khăn bàn thờ Tổ, lặng lẽ khấn những lời chẳng cầu gì ngoài hai chữ “đủ yên”, rồi khép cửa, để cho gió từ sông đi qua khe phên mà hôn nhẹ vào trán, như muốn nói rằng sông đã nghe, rằng nợ thì đã ghi, rằng trả thì cứ từ tốn, rằng mai nữa, khi nắng lên, chỉ cần bưng ấm nước lá dứa ra hiên, rót vào hai cái chén nhỏ, đặt một chén cho mẹ, giữ một chén cho mình, thở một hơi dài, rồi tiếp tục kê thêm một viên đá dưới chân sào, nối thêm một sợi chỉ giữa hai bờ, gọi thêm một đứa trẻ vào ngồi, bày thêm một con cá lá, thử thêm một nấc đèn, rải thêm một nắm cát, viết thêm một hàng chữ rành, dán thêm một mảng hoa văn ở chỗ cần, tháo đi ở chỗ thừa, bởi cuộc trả nợ duy nhất mà gánh rối này chấp nhận là trả bằng từng việc nhỏ, bền bỉ, lặng tiếng, lâu ngày thành một mặt nước yên, trên đó, hễ ai cúi xuống, cũng có thể soi thấy mình không lạ.



Bình luận
Chưa có bình luận