Chương 5: Chữ vừa sau rằm



Sáng sau rằm, đôi bờ sông Hậu im như người vừa nói xong một câu chuyện dài. Mặt nước tĩnh, những vệt lăn tăn nhỏ như sợi chỉ bạc còn vương từ đêm trước. Trong chòi, đầu rối nằm ngay ngắn, lưng rồng xanh lấp lánh hạt cườm cô Ba dán giúp. Khăn bàn thờ Tổ phẳng phiu, đường chỉ xanh mẹ thêu vẫn đứng yên như một lằn mốc. Thu An thức dậy sớm hơn mọi hôm. Nó quét lại sàn gỗ, gom mấy mảnh giấy dầu cô My gỡ xuống, lau sạch phên bằng nước ấm có thả ít lá dứa. Lau đến đâu thơm đến đó. Bà Bảy ngoài hiên đang chắt nước luộc lá dứa ra bình, định đem chia cho mấy nhà bên uống cho mát miệng.

Tin đêm rằm kể tích Mộc Tinh yên ổn đã lan đi khắp xóm. Người ghé chòi từ sớm. Có cụ già đem mấy trái ổi còn sương, bảo cho tụi nhỏ gặm chơi. Có chị bán cá gửi mớ cá linh non, nói bữa nay kho mặn để ăn dần. Có ông Trọng giảng viên cầm theo xấp giấy, bảo ông chép vài điệu cổ mà ông nhớ, để nếu sau này muốn đổi tích thì cũng đổi trong cái gốc của nó. Phúc in tấm ảnh trăng rọi lên nước thành giấy, lồng vào khung mỏng, đem tặng. Anh chỉ vào hàng chữ nhỏ ở góc ảnh, cười hiền. Hàng chữ ấy viết rằng đèn đi sau tiếng. Thu An nhận, cúi đầu, tay hơi run.

Cả buổi sáng, người tới người lui. Mỗi người một lời khen, một lời dặn, một món quà nhỏ. Giữa những lời ấy, vẫn có câu hỏi lo lắng. Một bà đứng tuổi nói nhỏ rằng nghe nói có đoàn khách trên tỉnh muốn đặt chỗ xem, sợ bờ đông quá thì trẻ con xô nhau. Một ông khác bảo nên bán vé nhẹ tay lấy kinh phí vá mái, chứ cứ như cũ thì khó bền. Bà Bảy nghe, không chê, cũng không vội thuận. Bà chỉ bảo để gánh bàn tính kĩ. Tiền thì ai cũng cần, nhưng tiếng kể thì không nên đổi giọng. Người nghe thấy rành mới vui. Bà nói vậy rồi rót thêm trà, đẩy chén về phía khách.

Đến xế trưa, xã gửi công văn mời gánh tham dự Ngày hội Sông Nước do huyện tổ chức tháng sau. Trong công văn ghi xin một suất diễn, nơi diễn là bến nước công viên, có sân gỗ dựng sẵn. Chị Nhị phòng văn hóa kèm lời nhắn rằng hỗ trợ kỹ thuật vừa đủ, còn cách kể tùy gánh quyết. Bà Bảy đọc xong, lặng người một lát. Chưa kịp gật hay lắc, tiếng chân trẻ con đã rộn ngoài cửa. Đám nhỏ kéo nhau tới, mỗi đứa ôm một thứ. Con Nụ ôm bảng “Ngồi yên”, thằng Cẩm ôm nắp nồi thay chập chõa, thằng Hào kéo cái thân dừa khô nói sẽ làm đầu rối. Tụi nó xin chị An dạy làm con rối nhỏ để tới bữa chơi chung. Thu An cười, gật ngay. Nó bảo tụi nhỏ rửa tay cho sạch, ngồi vòng tròn ở sàn chòi, lấy lá dừa, cọng tre, dây chuối khô ra học bện. Bàn tay trẻ con vụng về mà nhanh. Tiếng cười chảy dọc sàn gỗ nhẹ như nước chảy qua gọng vó.

Buổi dạy đầu tiên bắt đầu bằng con cá kình lá dừa. Thu An uốn từng bẹ lá, luồn sợi dây chuối qua, buộc nút. Nó dạy tụi nhỏ buộc nút trượt để lỡ sai còn tháo được. Đứa nào buộc chặt quá, nó khen gân tay khỏe nhưng bảo làm lại cho đúng. Con Nụ buộc khéo nhất. Nó đặt tên con cá của nó là Ngân vì ánh lá mới cắt trong như bạc. Thằng Hào thì bày trò cho con cá cắn đuôi mình. Cả bọn cười ầm. Bà Bảy nhìn mà mắt hiền hẳn đi. Bà lấy trong rổ ra mấy viên đường thốt nốt nhỏ, chia cho tụi nhỏ mỗi đứa một viên, dặn ngậm thôi đừng cắn. Đường tan từ từ, ngọt bền. Ngọt đúng kiểu làng này.

Chiều, khi tụi nhỏ đã về, cả nhóm lớn ngồi lại bàn chuyện huyện mời. Ông Sáu nhớ những năm trẻ kéo rối tại đình, bảo diễn ở nơi khác có cái vui của nó nhưng phải giữ nhịp của mình. Cô Ba ngại loa lớn. Anh Hai ngại sân gỗ trơn. Tín ngại dòng nước công viên lềnh bềnh rác. Thu An ngồi nghe từng người, ghi vào sổ từng ngại, từng cách khắc phục. Nó đề nghị mang theo lưới mịn để chặn rác, mang cát rải mỏng lên mặt gỗ cho bám chân, dạy lại một lượt quy tắc an toàn cho người xem, đề nghị ban tổ chức hạ bớt ánh sáng sân khấu của họ, chỉ để hàng đèn nhỏ của gánh. Bà Bảy nghe hết, chốt lại một câu rằng gánh nhận lời nếu mọi thứ cho phép kể theo kiểu nhà. Nếu buộc thay tiếng, gánh xin thôi. Cả nhóm đồng thuận.

Đang nói, trời bỗng đổ mưa lắt rắt. Những hạt mưa đầu mùa nhẹ như bụi. Mùi đất bốc lên thơm ràn rạt. Thu An đi dọc mái xem chỗ dột. Nó đánh dấu ba nơi rơm mục. Anh Hai hứa ngày mai lợp lại. Tín xin đi chặt thêm mấy bó bẹ dừa khô. Cô Ba gom mấy chiếc đèn dầu, lau bấc. Ông Sáu buộc lại dây đờn. Mỗi người một việc nhỏ. Việc nhỏ nối nhau thành một vỉ cứng.

Tối đến, khi mưa đã dứt, bờ nước lặng như ngủ. Phúc ghé lại đưa vài bình luận dưới bài viết. Có người khen thơm, có người nói “mộc đẹp”, có người hỏi mùi lá dứa là mùi gì. Cũng có vài dòng nói đêm rằm thiếu âm thanh hiện đại, nghe không đã tai. Phúc thở ra, bảo lời trên mạng nhiều kiểu. Quan trọng là người ngồi bờ hôm ấy cười, thở, chắp tay. Bà Bảy nghe xong, chỉ nói mạng là chợ, ai thích thì ghé, ai không thích thì thôi. Bờ nước nhà có chỗ ngồi, có vạch phấn, có tiếng chập chõa. Ở đó, người với người nhìn được nhau rõ ràng. Câu nói khiến Thu An nhẹ hẳn trong ngực. Nó biết có nơi để về, biết mốc để dựa.

Những ngày tiếp theo, gánh bận rộn hơn bình thường. Vừa tập diễn cho huyện, vừa mở lớp con nít mỗi buổi chiều cho tụi nhỏ làm rối lá. Lớp học có khi kéo dài tới xẩm tối. Đèn dầu treo thấp, ánh vàng mỡ gà. Tiếng con nít gọi nhau nghe trong như tiếng trái bần rơi xuống nước. Một chiều, cô My đem theo mấy mẫu hoa văn mới. Cô vẽ hình con đòng đong bay trên đám cỏ bợ. Nhìn như bức dệt bằng nước. Thu An thử rọi ánh lên, bóng hoa văn hiện nhè nhẹ. Bà Bảy nhìn lâu, nói “được”, thêm chữ “vừa” sau đó, rồi cười.

Tối nọ, có người đàn ông lạ ghé bờ. Ông đi chiếc xe máy cũ, chở theo thùng loa. Ông nói nghe đồn gánh không thích loa to, nhưng ông có loại loa thùng nhỏ, tiếng mộc, chỉ tăng vừa đủ cho người ngồi xa nghe rõ mà không lấn tiếng đờn. Ông đặt thùng loa xuống, mở nhè nhẹ một điệu vọng cổ. Tiếng loa không sắc, nghe như tiếng người đứng sát mà nói. Ông bảo xin để lại cho gánh dùng thử, không lấy tiền. Bà Bảy cảm ơn, dặn rõ gánh có thể dùng hoặc không. Thu An thử đặt loa ở bờ đối diện, mở mức rất thấp khi ông Sáu kéo đờn. Tiếng đờn vẫn đứng trước, loa chỉ nâng một chút như người đỡ tay. Thu An ghi chú vào sổ rằng để đó khi bờ đông quá. Nó ghi thêm chữ “có thể” cạnh chữ “thử”.

Hôm sau, xã cử người khảo sát bờ cho ngày hội. Họ đo khoảng cách, vạch lại lối vào, dựng tạm một bờ chắn thấp bằng tre. Chị Nhị tới, đưa bản cam kết an toàn. Bà Bảy đọc kĩ từng dòng. Trong đó có mục nếu mưa lớn thì rút vào trong, nếu nước dâng thì dừng ngay. Bà gật, nói mấy điều ấy vốn là quy tắc của nhà. Hai bên ký xong, dăm ba câu chuyện rơi xuống nhẹ như mưa cuối mùa.

Một buổi chiều khác, tờ báo tỉnh đăng tin về gánh, kèm theo số điện thoại Phòng văn hóa. Tối đó, điện thoại nhà trưởng ấp reo không ngớt. Có đoàn thanh niên xin tham gia dọn bờ. Có nhóm học sinh xin được tham quan chòi. Cũng có một công ty du lịch hỏi suất xem riêng. Trưởng ấp nghe xong, nhắn lại rằng gánh không bán riêng, ai tới thì ngồi, giữ im lặng, giữ an toàn. Công ty ngập ngừng rồi thôi. Bà Bảy nghe kể, cười phơ phơ, bảo bờ sông không ai mua đứt. Nước đâu chịu vậy.

Bên cạnh chuyện vui, cũng nhen nhóm một chuyện nhỏ khác. Chú Bảy Còng phát hiện cái neo cũ bị lỏng vì ai đó buộc vội. Chú càm ràm, bảo làm gì cũng phải chậm mà chắc. Tín nhận lỗi, cười méo, rồi lội xuống cột lại. Đang cột, chân Tín vấp một nhánh cây dưới bùn, trẹo nhẹ. Thu An chạy lại, vịn tay, dặn nghỉ chút. Tín phẩy tay, bảo tui khỏe. Nhưng ánh mắt vẫn hơi đau. Mẹ đem khăn nóng ra chườm. Cả nhóm ngồi im mấy phút. Những phút im lặng như vậy quý như miếng nước mát. Im để nghe tiếng tặc lưỡi của nước, nghe tiếng người thở lại cho đều.

Sáng nọ, trời hửng trong. Ông Trọng mang tới một tập tài liệu. Ông gợi ý gánh ghi lại lời thoại, nhịp đờn, vị trí chuyển cảnh thành một bản chép tay. Bản này vừa làm kỉ yếu, vừa làm tài liệu cho lớp nhỏ học sau. Thu An reo lên, bảo đúng ý. Nó hẹn ông chiều ngồi chép cùng. Ông gật. Ông bảo chữ viết tay có linh hồn. In máy sạch, nhưng lạnh. Bà Bảy đem ra hộp bút máy cũ của ông nhà, đặt lên bàn. Nắp bút đã sứt, nhưng ngòi vẫn êm. Thu An vặn mực, viết thử tên gánh. Chữ hiện ra mềm và đậm. Đậm như mùi nước mắm kho.

Buổi chiều ấy, chòi rối thành lớp chép. Ông Sáu đọc chậm từng câu hát. Cô Ba gõ một nhịp, dừng, chờ chữ. Thu An chép bằng bút máy, ông Trọng chỉnh chỗ nào chệch. Bà Bảy ngồi đối diện, đếm nhịp bằng ngón tay gõ xuống mặt bàn tre. Tiếng gõ đều, như tim người ngủ sâu. Con Nụ chạy về, ôm khư khư con cá lá dừa, leo lên sàn ngồi nghe. Nó hỏi chữ nào đọc là gì. Thu An vừa chép vừa đọc cho con nghe, phát âm chậm từng chữ. Lần đầu tiên, con bé thấy tiếng của gánh biến thành nét đen trên giấy. Nó rờ nhẹ mép giấy, sợ làm bong chữ.

Xong một hồi, ông Trọng ngẩng lên, hỏi Thu An có tính dựng tích mới cho mùa nước nổi không. Thu An bảo có nghĩ tới tích Cá hóa Rồng, kể con cá vượt chín đợt sóng. Nhưng nó không muốn cá hóa rồng bằng pháo sáng. Nó muốn cá hóa bằng hơi thở của nước. Ông Trọng gật. Ông nhắc phải coi lại nhịp đờn khi vào đoạn hóa, kẻo người nghe tưởng lố. Ông chép vào sổ một cái đề mục, lưu lại. Bên cạnh đề mục, Thu An vẽ một con cá bé bằng đầu ngón tay, đuôi cong như dấu hỏi.

Đêm khuya, trời lặng. Tiếng ếch lẫn đâu đó dưới ruộng, vọng lên như tiếng người gọi đò. Thu An ngồi một mình ở bậc tre. Nó nhớ Sài Gòn chút ít, nhớ những đêm đi thực tập chạy đèn, người gọi nhau giữa sân cỏ, nhớ âm thanh kim loại của dàn khung, nhớ nắng loang loáng trên trang thiết bị. Nhưng nhớ rồi, nó thấy ngày hôm nay đủ. Ở đây, mỗi việc là một mũi kim. Khâu lại dây mục. Khâu lại mối dở dang. Khâu cả những vết nứt bé xíu trong lòng người. Nó buông chân xuống nước, thấy nước hiền, mơn man. Từ xa, một mảng mây bỗng kéo lên. Nhưng mây mỏng. Mây như tấm khăn lau lau rồi treo ngay.

Một sáng khác, thị trấn phía trên mời gánh biểu diễn thử trong chương trình trường học. Họ muốn bọn trẻ thành phố biết rối nước là gì. Họ muốn gánh kéo một đoạn ngắn, mang theo ít đầu rối. Thu An nhìn mẹ. Bà gật nhưng dặn không mang cả chòi đi. Chòi của nhà sinh trong nước. Đưa cả đi thì rút rễ. Mang ít đầu rối lên cho bọn trẻ sờ, cho chúng nghe mùi gỗ, mùi sơn ta, nghe một đoạn đờn cò. Phần ánh chỉ có một chiếc đèn nhỏ, rọi lên tấm vải trắng, để trẻ con hình dung. Thu An ghi vào sổ, soạn bọc vải, lót kĩ từng đầu rối cho khỏi trầy.

Ngày tới trường, bọn trẻ mắt tròn như hột nhãn. Chúng xúm tới quanh bàn, tay chạm rất khẽ vào con trâu mốc, con cá kình. Ông Sáu kéo thử hai câu, cô Ba gõ hai nhịp. Thu An tắt đèn trong hội trường, bật đốm ánh nhỏ chiếu một vệt mây lên tấm vải. Cả phòng ồ lên nho nhỏ. Một đứa bé giơ tay hỏi khói lá dứa thơm ra sao. Thu An lấy từ túi một nhúm lá dứa khô, đưa lên mũi bọn trẻ. Đứa nào hít cũng cười, như gặp cái gì thân quen mà chưa gọi tên được. Cuối buổi, cô giáo xin cho trường về làng xem trực tiếp. Thu An mời, dặn ngồi yên. Tụi nhỏ gật, miệng đồng thanh dạ, nghe như tiếng sóng lăn tăn.

Về lại làng, mưa trái mùa đổ tới. Mưa không to nhưng dai. Nước sông dềnh lên một lằn mỏng. Gió thổi lệch. Bà Bảy đứng hiên, tay cầm khăn trắng, mắt đo dòng. Bà bảo đêm nay cất hết đèn vào trong, chỉ treo đèn dầu. Thu An làm theo, từ tốn. Đèn dầu bật lên, mùi khói mỏng. Cả chòi vàng như màu giấy dó. Phúc ngồi trong góc, xin phép ghi vài dòng nữa. My đem theo áo mưa, gom những giấy vẽ lại sợ ẩm. Ông Trọng đội nón, chống gậy, nói mưa này không lo, nhưng dạy tụi nhỏ phân biệt mưa dai với mưa dồn mới là việc cần.

Tụi nhỏ chiều đó tới chậm vì mưa. Vào chòi, chúng ngồi tụm lại, lấy con cá lá dừa ra chơi. Thu An chuyển sang dạy rối giấy dầu cho ngày mưa. Nó cắt một con chim nhỏ, buộc dây vào hai cánh, kéo bay trên nền vải trắng. Trẻ con reo. Bà Bảy nhìn cảnh ấy, chợt nói câu mà ai cũng nhớ. Bà bảo nước có ngày ầm ầm, cũng có ngày thiu thiu. Kể chuyện thì biết chờ nước thiu thiu mà thì thầm, biết tới nước ầm ầm mà né. Nghe xong, ai cũng gật như tiếng tre gặp gió.

Lại có một chuyện nhỏ khác rơi xuống. Lúc dọn bờ sau cơn mưa, anh Hai nhặt được một con đom đóm chết bên bụi cỏ. Anh đặt lên lòng bàn tay, thở ra. Thu An nhìn, nói ánh sáng nào cũng có lúc mệt. Nó nhón tay nhặt con đom đóm, đặt vào hõm đất, lấp một chút cát. Con Nụ đứng cạnh, không cười. Nó hỏi mai có đom đóm khác tới không. Thu An bảo sẽ tới. Bởi đêm nào nước yên, đom đóm cũng bật. Bởi đêm nào người yên, đom đóm cũng ưng.

Những ngày mưa hết dần. Mặt sông trả lại một màu nâu hiền. Gió đổi hướng. Làng chuẩn bị cho chuyến đi huyện. Đồ nghề được kiểm tra lần cuối. Mỗi sợi dây có nút dự phòng. Mỗi đầu rối có mảnh vải phủ. Mỗi bóng đèn có bọc chống nước. Mỗi người trong gánh có một việc rõ ràng. Thu An viết ra một tờ giấy to, dán ở cột chòi, ghi bốn dòng lớn. Dòng thứ nhất là rành. Dòng thứ hai là vừa. Dòng thứ ba là yên. Dòng thứ tư là nghe. Dưới bốn dòng ấy, nó dán thêm mảnh giấy bé, ghi hai chữ nhỏ nữa. Hai chữ ấy là cảm ơn.

Ngày lên huyện, bờ công viên đông người. Sân gỗ đã dựng sẵn, bờ cỏ trải dài. Dòng nước ở đây không rộng bằng quê, nhưng vẫn có mùi bùn. Nhân viên kỹ thuật chờ sẵn. Họ chìa dây, chìa ổ cắm, mời gánh thử. Thu An nói trước sẽ bật đèn của nhà, xin tắt bớt ánh trắng. Họ nhún vai rồi làm theo. Thu An rải cát mỏng lên mặt gỗ. Tín thả lưới mịn dưới mép. Anh Hai cột dây vào cọc sắt. Cô Ba đặt tấm bảng “Ngồi yên” mới viết bằng phấn. Ông Sáu ngồi thử ghế, chỉnh cần đờn. Bà Bảy đứng xa nhìn toàn cảnh. Bà gật rất nhẹ.

Buổi diễn ở huyện trôi như con nước quen bờ. Người thành phố ngồi hàng ghế đầu, mắt mở to. Khi khói lá dứa bốc lên, có người giơ điện thoại đưa cao, nhưng rồi hạ xuống. Hạ xuống vì màn sương mỏng kia chỉ nhìn bằng mắt mới đủ. Khúc cuối, tràng vỗ tay dày như ở làng. Sau buổi diễn, mấy em bé chạy đến xin chạm con rồng. Thu An cho chạm một chút, dặn tay khô hãy chạm. Bàn tay bé xíu sờ lên thớ gỗ, cười. Chút gỗ miền sông rạch vì vậy mà đi một vòng, rồi lại trở về.

Khuya đó, gánh về lại làng. Sương giăng mỏng trên bờ dừa nước. Bà Bảy mở chòi, thắp đèn. Tấm khăn đường chỉ xanh lại nằm ở nơi cũ. Thu An đặt con rồng lên kệ, tháo bọc, thở ra. Mùi gỗ trở lại như khi mới sinh. Nó ngồi xuống, nhìn tay mình. Trên tay có vết dây cọ, có dấu mực bút, có mùi lá dứa và dầu bóng. Nó biết những dấu ấy sẽ phai. Rồi lại có những dấu khác hiện lên. Nhưng có một dấu chắc ở lại lâu. Dấu ấy là chữ vừa.

Đêm xuống sâu. Tiếng nước chảy đều. Gió đưa mùi đồng xa lẫn mùi bếp than. Từ trong chòi, tiếng bà Bảy cất lên một câu nói nhỏ. Bà bảo mai treo bảng dạy tụi nhỏ thêm con chim giấy dầu, dạy thêm cách gỡ nút trượt bằng hai ngón tay. Dạy gỡ để sau này tụi nó biết tháo cái gì không vừa. Thu An cười, đáp dạ. Nó tắt đèn, kéo cửa, nằm nghe sông thở. Trong giấc ngủ, nó thấy sợi chỉ mảnh nối bờ với bờ. Sợi chỉ sáng nhẹ như lưng đom đóm, bền như gân dừa, im như mắt mẹ khi nghĩ ngợi. Sáng thức dậy, nó sẽ buộc thêm một nút nữa cho chắc. Rồi mở chòi, mời nước vào. Rồi kể tiếp. Rành. Vừa. Yên.

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout