Chương 4: Gió chướng trước rằm




Buổi sớm lên xanh như tàu lá dứa vừa rửa qua nước mưa. Con nước vẫn lửng lơ, mé bờ ướt sũng, những dấu chân tối qua còn in rõ. Thu An lúi húi kiểm lại từng đầu nối, miệng lẩm nhẩm danh sách công việc. Bà Bảy nhóm bếp, bắc nồi nước sôi, bẻ ít lá dứa thả vô cho thơm nhà. Hơi lá dứa bay theo luồng gió sông mà thoảng vào chòi rối. Từ ngoài bờ, tiếng chú Năm Tỵ gọi vọng: “Có bưu phẩm nè.” Thu An chạy ra, nhận một phong bì cứng. Trong ấy là tờ giấy mời dự buổi tọa đàm văn hóa ở huyện vào sáng mai, đề tài rối nước trong đời sống hôm nay. Góc trái tờ giấy có hàng chữ nhỏ: “Mời bà Bảy đại diện gánh, mời Thu An trình bày phần kỹ thuật ánh.” Bà Bảy cầm tờ mời, im chừng một nhịp nước, rồi gật. Gật xong, bà cất tờ mời dưới gối bàn thờ Tổ, như cất một hột cau non.

Tin đồn tờ mời lan nhanh y như gió chướng vừa trở. Xế sáng, đã có người làng ghé qua hỏi coi mai ai đi. Có cụ già lo: “Đi huyện có làm lỡ tay làm chân tối rằm không.” Bà Bảy nói nhẹ: “Đi chừng mực, nói chừng mực, về sớm.” Thu An đứng cạnh, nghe tiếng “chừng mực” như nghe tiếng gõ nhịp của cô Ba. Nó tính bụng sẽ nói ít, chỉ kể điều mình làm, không khoe, không dông dài.

Giữa lúc đang ràng lại sợi dây ở mé ngoài, Phúc - anh phóng viên trẻ - xuất hiện với chiếc nón lưỡi trai ướt sương. Anh chìa điện thoại, nói: “Bài em đăng rồi. Em để tựa nhỏ: ‘Khói lá dứa trên mặt nước’. Hình vừa đủ, chữ vừa phải.” Thu An cười, cảm ơn. Bà Bảy xem xong chỉ gật. Đưa máy lại gần, Thu An thấy trong ảnh bàn tay mẹ đang chấm sơn, đầu rồng ngả bóng, một đứa nhỏ ôm bảng “Ngồi yên”. Tấm ảnh không chói, nhìn vào nghe mùi nước. Phúc còn nói báo mời lên huyện chiều nay để quay ít thước phim ngắn làm tin văn nghệ chiều rằm. Bà Bảy bảo: “Chiều nay tụi tôi còn dọn. Sáng mai vào huyện, chiều về tập lại. Quay gì thì mời quay lúc trưa thôi.” Phúc cười, dạ.

Trưa, bỗng có tiếng xe máy dừng trước dâm bụt. Một cô gái bước xuống, mang ba lô, tay ôm ống bản vẽ, mái tóc cắt ngắn, áo sơ mi trắng, giày vải lấm bụi đường. Cô tự giới thiệu: “Em tên My, học khoa mỹ thuật ứng dụng trên thành phố, đang làm luận văn về tín hiệu thị giác trong nghệ thuật dân gian. Em đọc bài của anh Phúc, xin xuống xin coi thiệt.” Bà Bảy mời vào nhà, rót trà. Cô My lịch sự, nhìn gì cũng trầm trồ, nhưng trầm trồ vừa phải. Cô xin phép mở ống bản vẽ, trải ra hai tờ giấy lớn vẽ các mẫu hoa văn sóng nước, đám mây, lá dứa, đờn cò. Cô nói ý định của mình: “Nếu được, đêm rằm em dán vài mảng giấy dầu cắt sẵn lên phên ở mé trong, không để người xem thấy, để khi ánh rọi nhẹ, hoa văn hiện mờ lên như bóng nước. Em sẽ không chạm vào đầu rối, không chạm bàn thờ, chỉ mượn phên thôi.” Thu An nhìn kỹ, lấy tay che một mắt để xem tổng thể. Những đường nét của My mềm như sợi nước, không gằn. Nó quay sang mẹ. Bà Bảy nói: “Hoa văn thì coi được. Nhưng dán sao đừng để phên ướt rồi tróc.” Cô My rút ít hồ gạo ra, bảo chỉ dán chỗ khô, dán vào mặt sau, diễn xong gỡ hết, lau nước, không để lại dấu. Câu trả lời chín. Bà Bảy gật.

Chiều, nhóm của Thu An chia nhau công việc. Tín dựng thêm hai cây cọc phụ ở mé ngoài, cột dây vào một gốc bần to. Anh Hai gỡ mấy mối dây cũ, thay nút mới kiểu trượt. Cô Ba dán một tờ giấy lớn ghi vài điều cho khán giả: “Ngồi yên, không vượt vạch phấn, giữ im lặng khi có hiệu lệnh, trẻ nhỏ đi cùng người lớn.” Ông Sáu lấy dầu bóng xoa nhẹ lên cần đờn cho mượt. Mặt sông chiều ấy phẳng như lưng cá ngủ. Sâu dưới đó, vẫn có một luồng nước đen chạy chậm.

Đêm trước ngày rằm, bỗng có tiếng người cãi nhau ngoài bến. Là chú Bảy Còng với ông Tám Rịa, hai người lâu nay bất hòa chuyện bờ ranh. Ông Tám nói giọng gằn: “Tui neo xuồng chỗ này từ đời cha tui. Sao bữa nay bảo dời.” Chú Bảy cãi: “Dời một bữa cho bọn nhỏ coi rối có sao. Đi chục thước chứ mấy.” Mấy tiếng “có sao” rơi xuống khiến mặt nước nổi lên mấy gợn nhỏ. Người đứng bờ nhìn nhau lo lắng. Bà Bảy bước ra, không quát, không nạt. Bà nói nhỏ mà rõ: “Đêm rằm đông. Xuồng để sát vạch phấn thì người đứng coi sẽ dồn ra mé. Mình chịu khó dời một đêm, mai dọn về như cũ. Bữa sau tui đem trái cây qua tạ.” Ông Tám Rịa nhìn bà. Cái nhìn lâu trong vài nhịp thở. Ông hạ giọng: “Thôi, nghe bà.” Chú Bảy Còng im, xách dây đi dời. Cả bờ lại thở được. Thu An nhìn lưng mẹ nhỏ như một cái cọc bờ, tưởng mong manh mà trụ chắc.

Rạng sáng ngày rằm, sương rơi dày. Tờ lịch gió lật lên như có người chạm. Thu An đánh dấu những việc cuối: phát áo phao, căng dây hướng dẫn, phủ bạt mỏng chỗ máy chiếu, thử đèn dầu làm đèn phụ nếu điện cúp, gắn mấy mảng giấy dầu của My. Cả nhóm làm như một chiếc máy bền, không ai la ai, ai cũng nhớ phần mình. Khi mặt trời lên khỏi đọt bần, con nước nhích thêm nửa gang tay, rồi đứng. Đứng kiểu người suy nghĩ. Bà Bảy nhìn, nói: “Đứng vậy thì trưa sẽ lừ đừ. Chiều coi chừng nhích nữa.” Thu An gật, đem chuyện ấy ghi vào sổ, gạch dưới hai lần.

Đến giờ đi huyện, bà Bảy thay chiếc áo bà ba đen, chít khăn gọn. Thu An mặc áo sơ mi trắng, quần đen, mang đôi dép mềm, cột lại tóc. Hai mẹ con lên chiếc xuồng nhỏ của chú Năm Tỵ. Tiếng máy nổ rang nhẹ, bọt nước trắng như mỡ cá. Hai bờ lùi chậm. Đi được một đoạn, bà Bảy lôi trong giỏ cái túi vải, trong đó có gói bánh ít lá gai dì Tám gửi biếu mấy người huyện. “Cái miệng có mùi ngọt thì nói cũng dễ trôi,” bà nói. Thu An cười. Sông rộng ra, bóng mây trời rơi xuống mặt nước, mỏng như khói lá dứa.

Huyện hôm đó tổ chức tọa đàm ở hội trường nhỏ. Người đi không đông lắm, nhưng đủ mặt. Có ông trưởng phòng văn hóa, có cô kiểm duyệt nội dung lễ hội, có mấy anh chị làm du lịch, có vài bạn trẻ cầm sổ. Phúc ngồi cuối dãy, lâu lâu ngẩng lên cười khích lệ. Buổi nói chuyện mở bằng một đoạn phim ngắn anh quay: bàn tay bà Bảy chấm sơn, đèn vàng rọi nhẹ mặt phên, khói lá dứa mờ như sương. Chiếu xong, ai cũng ư ử. Ông trưởng phòng mời bà Bảy nói trước. Bà đứng dậy, giọng chậm, câu chữ mộc. Bà kể nghề kéo rối nước ở làng là do ông nhà truyền lại, đời trước diễn ở đình, đời bà diễn ở sông. Bà nói diễn ở sông thì phải sống trong nước, chịu bùn, chịu đòn gió. Bà nói bữa nay gánh yếu người, già nhiều trẻ ít, nên ráng cột dây chắc, ráng dạy tụi nhỏ ngồi yên, ráng chừng mực. Bà không nói nhiều. Nhưng khi bà ngừng, cả hội trường im vài nhịp, rồi vỗ tay.

Đến lượt Thu An. Nó kể chuyện học ánh sáng trên thành phố, nhớ mùi lá dứa ở nhà, muốn mượn ánh để kể chuyện nước, không thay nhạc, không thay lời, chỉ cho mắt người quen với nhịp trời nhịp nước. Nó trình bày sơ về đèn led mát, về băng chống nước, về mica đặt mép, về cách tắt mở như gió, về câu “đèn đi sau tiếng”. Có người hỏi: “Đèn có làm mất hồn nước.” Thu An đáp: “Con để đèn nói nhỏ. Hồn nước là nhịp chập chõa với tiếng đờn cò, là mùi bùn trên thớ gỗ, là tiếng người làng hít một hơi. Con chỉ soi cho người xa thấy cái ấy rõ hơn.” Câu trả lời không hoa. Cô kiểm duyệt ghi vào sổ mấy chữ, rồi gật. Một anh làm du lịch ngỏ ý rằm sau muốn đưa đoàn xuống coi. Bà Bảy nói: “Tụi tui không bán vé. Ai tới thì ngồi, miễn ngồi yên.” Anh kia cười, nói dạ.

Khi ra khỏi hội trường, một người đàn ông trung niên chặn Thu An lại. Áo sơ mi kẻ ô, đuôi mắt có nếp nhăn, giọng Bắc nhẹ. Ông tự xưng tên Trọng, giảng viên trường văn hóa nghệ thuật ở tỉnh lân cận. Ông nói đã đọc bài của Phúc, chạy qua nghe cho biết. Ông bảo: “Cô làm ánh khéo. Nhưng tôi vẫn lo cái lằn ranh giữa giữ gìn với biến đổi. Nhiều nơi biến đổi mà đánh mất gốc.” Thu An khẽ cúi: “Dạ, con biết sợ. Bởi vậy con học chữ ‘vừa’ ở nhà. Con làm gì cũng thử, hỏng thì rút, được thì cũng chỉ vừa đủ.” Ông Trọng nhìn lâu. Ông bỗng hạ giọng: “Ngày xưa tôi cũng kéo rối thời sinh viên, ở ao đình, không ở sông. Ở sông khó. Thôi, hẹn cô một bữa xuống coi, xem sông dạy tôi thêm.” Thu An cười, mời ông về làng tối rằm nếu tiện. Ông gật, ra về trước.

Hai mẹ con vội vã quay xuồng về xóm, sợ trưa nước đổi. Vừa cập bến, đám trẻ đã ùa ra: “Chị An ơi chiều tập nữa hông.” Thu An cười, xoa đầu từng đứa: “Chiều mình ráp gọn trong chòi, ngoài bờ để nước đứng đã.” Con Nụ giơ bảng “Ngồi yên”, tập nghiêm nét mặt như người lớn.

Xế chiều, trời bỗng oi. Gió ngừng, cây bần đứng im. Sự im ấy lạ, như người nín thở. Bờ nước vắng tiếng gà. Bà Bảy nhìn lên, nói rất khẽ: “Gió chướng.” Gió chướng là thứ gió cứ đùng một phát mà trở mùi mặn, làm da người rít mồ hôi, làm mặt nước cứng bóng rồi lại vụt nứt những đường mỏng. Gặp gió chướng, người làng thường chậm lại. Thu An hiểu, ra hiệu cho mọi người ngưng sớm. Cả nhóm thu đèn, trùm bạt. Anh Hai thả thêm một dây néo. Tín cắm thêm một cây vè nhỏ ở mép nước. Cô Ba cất chập chõa vào giỏ. Ông Sáu lau cần đờn, đặt lên cao.

Đúng lúc ấy, từ phía chợ tỉnh có tiếng xe ô tô dừng. Hai người đàn ông bận áo sơ mi xanh, đeo bảng tên công ty tổ chức sự kiện, bước xuống. Họ nhìn quanh bờ nước, cười xởi lởi, chìa danh thiếp. Họ nói nghe tin đêm rằm có diễn, công ty có bộ đèn công suất lớn, hệ thống loa hay, sẵn sàng tài trợ, đổi lại gắn logo nhỏ trên phên. Một người còn cắm tay vào túi quần, đá đá mũi giày gỗ bờ, nói nửa đùa: “Làm cho hoành tráng, người ta mới kéo tới đông.” Mấy chữ “hoành tráng” lọt vào tai bà Bảy. Bà không giận. Bà mời vô nhà, rót trà. Bà hỏi: “Đèn mấy ký, nguồn mấy ampe, cách kích hoạt ra sao, chống nước kiểu nào.” Họ ậm ừ. Thu An hỏi: “Gắn chỗ nào, chiếu hướng nào, có cho phép hạ rất nhanh nếu gió.” Họ tủm tỉm, bảo đèn to không hạ nhanh được, phải giữ thế mới đẹp, khỏi lo, chúng tôi làm hoài. Bà Bảy gật nhẹ, đặt chén trà xuống, nói thẳng: “Cám ơn. Bữa nay không cần. Nhà tui kể nhỏ.” Hai người hơi sượng, cười gượng, nói để dịp khác. Họ bước ra bờ, nhìn tấm bảng “Xin ngồi yên, giữ an toàn”, im, rồi đi. Gió chướng liếm qua mé bờ, nghe mằn mặn. Bà Bảy nhìn con gái. Thu An nắm nhẹ cổ tay mẹ một cái. Cả hai cùng thở ra.

Đêm đó, xóm chài nằm trong một bầu không khí vừa mong vừa lo. Trăng rằm nhú lên tròn như cái nia gạo. Từ xa, đám mây đen gom lại ở một góc trời, chưa tiến, chỉ đứng. Đèn nhà ai cũng được vặn nhỏ hơn thường. Người ta nói với nhau như nói trong đình. Trong chòi, Thu An trải lại tấm khăn vải xanh mẹ thêu, đặt đĩa lá dứa, hột muối, hột cau. Bà Bảy châm nhang, khấn vắn tắt: “Xin cho nước đứng, xin cho tiếng kể tròn.” Khói nhang đi thẳng lên mái, rồi tụ vào đọt bần. Ông Sáu ngồi mài dây cung, cô Ba ngồi lau mặt chập chõa, Tín ngồi cột lại dây vuông, anh Hai kê thêm miếng ván dưới chân sào. Cô My cắt xong mấy mảng giấy dầu cuối, đặt nhẹ lên mặt phên chỗ đã đánh dấu. Phúc ngồi lặng trong góc, kiểm thẻ nhớ, đóng máy, mở máy, rồi lại đóng. Ai nấy lấy việc nhỏ làm chỗ bấu tay.

Gần khuya, gió chướng trườn vào bờ như con cá ó. Mái lá rì rào. Mặt nước xuất hiện những vệt sáng bàng bạc như vảy cá lật. Bà Bảy đứng ở cửa, tay nắm chiếc khăn trắng. Lưng bà thẳng. Bà biết trời đất không hứa. Bà cũng biết tay người đã cột đủ nút. Bà quay vô, nói một câu như chốt: “Mai mình kể rành, kể vừa. Mưa thì rút. Nước dâng thì rút. Nước đứng thì xuống mái.” Thu An đáp: “Dạ.” Câu dạ rơi xuống như viên đá kê chưn bàn ghế. Nó vững.

Sáng rằm mở ra trong một lớp sương loãng. Tiếng chim không nhiều. Nước đứng, nhưng đứng theo kiểu mỏi chân. Thu An bắt đầu phát áo phao cho trẻ. Con Nụ đứng bên cầm bảng, tập mặt nghiêm như lính gác. Bà con kéo tới từ sớm, mang ghế tre, chiếu, bánh trái. Dì Tám đặt mâm bánh ít lá gai lên bàn tre, dặn đứa nào ăn nhớ góp rác vô thau. Trưởng ấp với mấy anh dân quân đứng chốt phía cuối bờ. Chị Nhị cầm loa tay, thử nói hai câu “xin ngồi yên”. Ông Sáu kéo thử hai hơi đờn rất nhỏ. Cô Ba gõ thử hai nhịp chập chõa, nghe như trái tim tập hít thở.

Giữa buổi, ông Trọng - người giảng viên - xuất hiện. Ông đội chiếc nón cối cũ, tay cầm túi vải, đi bộ từ bến khách vào, thở nhẹ. Thu An chạy ra chào. Ông không nói nhiều, chỉ nhìn đôi bàn tay đang cột dây, nhìn mấy đứa nhỏ mặc áo phao, gật. Ông đứng ở một chỗ xa, không chen, mắt đo mặt nước như người đo một câu thơ.

Buổi chiều, mặt trời lên cao rồi tụt nhanh như trái dừa lăn. Gió chướng vẫn còn đó, không hung, chỉ ngang ngạnh. Thu An cầm sổ đọc lớn lần nữa danh sách việc cần làm nếu mưa: tắt đèn, rút máy, kéo rối vào chòi, mời người xem ngồi yên, chờ hiệu lệnh. Mọi người nhắc lại như thuộc lòng. Trước giờ diễn một khắc, Thu An thắp đèn dầu phụ. Nó châm ít lá dứa, mùi hương bay một đường mỏng. Nó quỳ trước bàn thờ Tổ, lạy ba lạy. Mắt nó chạm vào đường chỉ xanh mẹ thêu. Đường chỉ xanh đứng im. Nó đứng dậy, ra bờ.

Tiếng chập chõa mở màn. Mềm. Vừa. Tiếng đờn cò theo sau. Vừa. Đèn bật lên một nấc nhỏ. Vừa. Bóng mây đi chậm trên phên. Vừa. Con rồng ló mắt. Vừa. Cả bờ nín thở một nhịp. Vừa lúc ấy, ở ngoài xa, mặt nước gợn lên một đường như vết kim khâu chạy dọc. Gió chướng kéo nhẹ. Một người đàn ông trẻ ở hàng sau vô tình nhích chân đụng vạch phấn. Con Nụ lập tức giơ bảng lên. Cả bờ cười khẽ. Tiếng cười làm gió dịu nửa hơi. Thu An đưa tay chạm công tắc, hạ đèn đi một mức, để cho bóng của trời giành bờ mặt sông. Ông Sáu hạ dây xuống một cung trầm, cô Ba giãn nhịp đúng một hàng thở. Mọi thứ khớp vào nhau như răng lược.

Khói lá dứa bò ngang mặt nước mỏng như tơ. Bầy đom đóm chấp chới phía hàng cỏ bờ. Mấy hoa văn giấy dầu My dán hiện lên như mồ hôi trên ván. Giữa lúc câu chuyện bước tới đoạn người rừng gọi mây, một tiếng sấm mồ côi nổ đâu đó sau rặng tràm. Cả bờ giựt mình. Bà Bảy giơ tay một cái. Thu An dừng ánh. Ông Sáu thả dây vào khoảng lặng. Cô Ba đặt chập chõa nằm xuống xanh. Gió chướng đột ngột đổi hướng, kéo qua một đường lạnh. Bức màn nước ngoài kia như đẩy vai nhau mà dồn lại. Mấy cây sào ngoài cùng kẽo kẹt. Tín trượt chân một chút nhưng kịp bám. Anh Hai đã ở vị trí, siết nút néo, rít quai. Mấy anh dân quân đứng lên một bước. Người xem ngồi yên. Con Nụ ôm bảng chặt hơn.

Khoảng lặng kéo dài vừa đủ để nghe tiếng tim trong ngực. Rồi nước thở ra một hơi ngắn. Đám mây ham mưa trôi lên trên, hở một cửa trời. Trăng rọi qua vệt hở ấy xuống mặt sông một cái dải bạc. Cái dải bạc ấy như sợi chỉ trời thả. Thu An thấy dải bạc, không bật đèn đuổi. Nó để trăng rọi. Nó lùi ánh của mình lại, chỉ nâng một nấc rất nhỏ ở phên, để mặt người còn thấy nhau. Ông Sáu bắt dây trở lại, cô Ba gõ lại nhịp, rồng nhô thêm nửa thân. Bà Bảy thở ra. Tiếng thở ấy nhỏ, chỉ đủ cho Thu An nghe.

Câu chuyện đi hết đoạn rừng. Mưa không đến. Gió chướng lùi ra xa như một người khách khó tính chịu ngồi yên nghe kể. Khúc cuối, tiếng đờn cò luyến như cái liếc mắt của người già thương trẻ. Chập chõa gõ chốt, cục cục. Khói lá dứa tắt ở đúng giây câu dứt. Đèn tắt sạch như bàn tay khép lại. Trăng còn đó. Mặt nước phẳng như tấm chiếu vừa căng.

Cả bờ bật tiếng vỗ tay. Không ồn. Dày. Phúc màng máy ảnh lên, nhưng không chụp khoảnh khắc vỗ tay, anh bỏ máy xuống, vỗ tay như mọi người. Ông Trọng đứng lặng, mặt hơi ngước. Lâu lắm ông mới chắp tay sau lưng, cười. Cô My ngồi ôm ống bản vẽ, mắt ươn ướt. Tụi nhỏ reo xong thì nhìn bảng “Ngồi yên” của con Nụ, cười, đứa nào cũng giơ tay “ok”. Chị Nhị thở ra, lau mồ hôi. Trưởng ấp quay qua bắt tay bà Bảy, nói: “Rành. Gọn. Yên.”

Sau màn vỗ tay, người làng không xô. Họ ngồi thêm một chút. Ngồi như ngồi sau bữa cơm, nhẩn nha chén trà. Rồi từng nhóm đứng dậy, từ tốn ra về. Người có ghế thì xách, người có chiếu thì cuộn, người có khăn thì gom. Mấy anh dân quân cười, xẹp vai. Trên bờ, tấm bảng “Xin ngồi yên, giữ an toàn” đứng ngay. Con Nụ ôm bảng đi như ôm một con gà. Nó ghé tai bảng, thì thầm: “Xong rồi nghen.”

Khi người thưa dần, gió chướng quay lại sờ mặt sông một cái rồi đi. Thu An tháo đèn, quấn dây. Anh Hai gỡ nút, buông chậm. Tín kéo thuyền vào cột lại. Cô Ba xếp chập chõa, hôn nhẹ mặt đồng. Ông Sáu bỏ cây đờn vào túi vải, buộc nút chậm như buộc nút áo của người già. Phúc đến gần, nói: “Bài kế tiếp em sẽ chỉ viết bốn hàng.” Thu An cười. Cô My gỡ hoa văn, lau phên khô, dọn sạch hồ, không để lại dấu. Bà Bảy đứng trước bàn thờ Tổ, châm một nén nhang nhỏ, khấn vắn tắt: “Cám ơn.”

Đêm rằm khép lại bằng tiếng cá quẫy từng chặp. Trên trời, trăng mòn mép vì mây đi qua. Trong nhà, nồi nước lá dứa cạn còn mùi thơm ở đáy. Thu An ngồi ở bậc thềm, thả chân xuống vệt nước ấm hơn khi nãy. Nó không nói lời nào. Nó chỉ đưa ngón tay trỏ ra không khí, vẽ một sợi chỉ tưởng tượng nối từ bàn thờ Tổ đến mép mái, từ mép mái đến bờ, từ bờ ra dòng trăng. Sợi chỉ ấy không cần ai thấy. Chỉ cần nó biết sợi chỉ đã nằm đó, êm như da cá, bền như gân dừa, mảnh như tóc mẹ.

Gió chướng vẫn còn, nhưng đã đổi giọng. Giọng không gắt. Giọng như người khách đã nghe hết chuyện, gật một cái rồi đứng dậy ra về, không đóng cửa quá mạnh. Thu An đứng lên, ôm lấy bà Bảy một cái. Ôm xong, nó buông ra nhanh, sợ mẹ ngại. Bà Bảy đưa tay vuốt tóc con, tay nồng mùi khói bếp. Bà nói: “Rành. Vừa. Yên.” Ba chữ như ba cọc cắm theo mé bờ. Ba chữ đó giữ chòi, giữ phên, giữ người.

Sáng hôm sau, tin làng kéo nhau đến chúc mừng. Ông Trọng viết mấy dòng tay trên tờ giấy học trò: “Giữ được hơi nước trong mắt người xem.” Ông ký tên, gấp làm tư, trao cho Thu An. Phúc đưa tấm ảnh in vội: một vệt trăng trên mặt nước, đầu rồng ló mắt, bóng mây mỏng, hàng chữ nhỏ ở góc dưới: “Đèn đi sau tiếng.” Cô My đưa một cuốn sổ tay, trên bìa vẽ họa tiết lá dứa bồng bềnh. Chị Nhị hẹn chiều ghé lấy danh sách tổng kết an toàn. Mấy bà hàng xóm gửi mớ bánh ít còn ấm. Tín cười, anh Hai cười, ông Sáu cười móm mém, cô Ba cười như tiếng đồng buổi sớm.

Con nước kể từ rằm bắt đầu đổi tính, muốn ròng. Nhưng ai nấy biết mùa tới đây sẽ còn nhiều mưa trái. Trên phên, còn mấy mối dây cần thay mới. Trên mái, còn mấy chỗ rơm mục phải chắp. Trên bờ, còn chuyện bờ ranh cũ cần nói lại cho êm. Dưới chòi, còn một ước muốn nhỏ vừa nhen: kể thêm mấy tích cũ bằng ánh nhẹ. Thu An mở sổ, viết ba dòng: “Giữ rành. Giữ vừa. Giữ yên.” Bên lề, nó vẽ một chiếc ghe không mái neo yên tại chỗ, bên mạn ghe treo một chùm lá dứa khô. Trên mặt sông, nó vẽ một sợi chỉ mảnh chạy xa tới tận vàm, đầu sợi buộc một hòn đá nhỏ. Hòn đá ấy không nặng lắm. Nhưng đặt đúng chỗ thì đủ.

Xế trưa, gió chướng đã tan. Thay vào đó là một luồng gió ấm từ đồng xa. Trẻ con đem bảng “Ngồi yên” ra chơi trò diễn rối, đứa cầm bảng, đứa kéo dây cỏ, đứa gõ cái nắp nồi làm chập chõa, đứa ê a tiếng đờn cò bằng môi. Bà Bảy ngồi nhìn, mắt như có nước. Thu An ngồi bên, khâu thêm hai mối dây nhỏ. Mỗi mối một mũi kim, mỗi mũi một hơi thở. Trên bếp, nồi nước lá dứa sôi khẽ. Mùi thơm leo qua mái lá, trộn với hơi sông, thành một thứ hương ai đi đâu cũng nhớ.

Rồi ngày rằm trôi qua như một con cá lặng lẽ bơi qua gầm cầu. Trên ván chòi rối, còn vệt sáng vỏ trứng để lại do trăng chạm. Ngoài bến, vẫn còn dấu chân người đêm qua, chưa kịp mờ. Người làng nhắc lại câu chuyện đêm ấy như nhắc món canh chua nấu đúng độ: bao nhiêu me, bao nhiêu đường, bao nhiêu muối, bao nhiêu bông điên điển. Nhắc xong, ai nấy lại đi làm việc của ngày thường. Nhưng trong giỏ mỗi người, có lẽ đã có thêm một cuộn chỉ nhỏ. Cuộn chỉ ấy không dùng để thêu khăn. Cuộn chỉ ấy dùng để nối nhau khi nước đổi.

Ở chòi, Thu An gấp chiếc sổ, đặt lên bàn tre. Nó ngẩng đầu nhìn mái. Trên mái, hàng đèn nhỏ treo yên, không chói. Dưới sàn, đầu rối nằm ngay, không phô. Ở cửa, chiếc khăn trắng treo trên đinh tre, không bay. Ngoài sông, mặt nước hiền như tấm lưng mẹ khi ngủ sớm. Gió lùa qua, mang theo mùi xa của đồng ruộng. Thu An đứng dậy, bưng ấm nước lá dứa ra hiên, rót cho mình một chén. Hơi ấm chạm môi, nó mỉm cười. Nụ cười không có tiếng. Nhưng nếu áp tai vào, chắc nghe được tiếng chập chõa rất khẽ, tiếng đờn cò rất khẽ, tiếng nước thở rất khẽ. Và ở đâu đó ngoài kia, con gió chướng đã đi hết một vòng, quay lại vuốt lên mặt sông một cái dịu dàng. Trên trời, một cụm mây mỏng được ánh trưa vẽ thành một đường chì. Đường ấy, nếu nhìn lâu, giống hệt một sợi chỉ.

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout