Buổi chiều đến bằng một thứ nắng đã bớt gắt. Trên rặng bần, lũ chim tẻ tách chuyền cành, rơi xuống mặt sông những cái bóng chấm nhỏ. Con nước lớn xong thì ngừng lại, như có ai nắm tay giữ cho yên, để người làng kịp dọn dẹp sân bãi. Thu An kéo lại mấy sợi dây, cột thêm một nút như lời mẹ dặn. Nó nhìn hàng bóng đèn vừa gắn, lòng bỗng thấp thỏm như người mới tập bơi chạm bước đầu vào nước. Cạnh nó, ông Sáu Nhơn ngồi trên ghế tre, nghiêng đầu lên dây đờn. Cô Ba Lài khẽ thử một nhịp chập chõa, tiếng vỗ mỏng như tờ lá dừa phơi.
Tin chiều nay kéo thử đoạn Mộc Tinh đã kéo người ra bờ nước đông hơn thường lệ. Trẻ con thành hàng dọc dăm ba đứa, đứa nhỏ đứng trước, đứa lớn đứng sau, mắt nhìn dán vào chòi rối. Mấy ông bà già ngồi trên bộng cây, tay chắp trước gối, miệng mấp máy nói chuyện vụ mùa. Mấy cô bán hàng rong để gánh cách đó một quãng, sẵn dịp trông chừng đám nhỏ. Chú Năm Tỵ neo ghe, bước lên bờ, cầm theo nải chuối sứ chín bóc vỏ sẵn, đưa cho tụi nhỏ mỗi đứa một miếng. Tiếng nói cười đậm mùi nước, mùi bùn, mùi ruộng đồng.
Bà Bảy xuất hiện từ cửa chòi rối chậm rãi như thường. Bà vẫn cái dáng người nhỏ, vai hơi còng, mặt sạm nhưng mắt sáng. Bà không nói những lời to tát. Bà đi một vòng nhìn dây, nhìn cọc, nhìn mái, chạm tay vào từng thứ như chạm vào da thịt mình. Đến khi thấy mọi thứ đã nằm yên, bà mới quay vào, lôi ra chiếc khay gỗ đựng chén nước, dĩa trái ổi, bình hương nhỏ cắm sẵn vài sợi lá dứa mảnh. Bà đặt khay lên bàn thờ Tổ, đốt nhang, khấn vắn tắt: xin cho nước đứng yên đủ lâu, xin cho dây chắc tay, xin cho người xem hiểu tấm lòng. Khi nhang vừa bén lửa, khói lá dứa nhân dịp ấy mà lan khắp chòi. Hương thơm luồn qua khe phên tre, chạm tay người ngoài hiên. Có bà cụ đứng hít nhẹ, thì thầm bảo mùi thơm này nghe như mùi thư thả của buổi tối xưa.
Thu An bước ra khỏi chòi, ôm theo con rồng xanh. Nó đặt con rồng lên mép sân khấu, chỉnh lại hàm răng gỗ đã được nó chà sạch. Nó nói đủ cho hàng trong nghe: “Con xin phép kéo thử ánh sáng với nhịp chập chõa. Không thay nhạc, không thay lời. Khúc này để coi bóng có nghe tiếng không.” Giọng nó không cao, nhưng rơi xuống nhẹ mà chắc. Đám đông im lại. Những cái thở dài sốt ruột của mấy ông già hạ xuống. Những tiếng rủ rỉ của mấy cô bán hàng lắng bớt. Cả bờ nước như chộn rộn mà yên.
Ông Sáu rướn người, kéo một câu đờn mở màn vừa đủ dài. Tiếng đờn cò không thê thiết mà không cạn. Nó như con nước non chưa lớn, lửng lơ, căng mà chưa tràn. Cô Ba gõ chập chõa chen vào. Nhịp của cô vẫn là nhịp của bao mùa trước. Không lơi, không gắt, đều đều như tiếng tim của người đứng lâu dưới nước. Thu An bật hàng đèn một cái nháy nhỏ để mọi người quen mắt, rồi hạ độ sáng xuống ngay như một cái gật đầu. Mặt nước trước sân khấu lấp lánh một lớp ánh mảnh, như mưa nắng vừa ghé qua rồi đi. Nó cầm tấm mica có cắt những vân mây loang, nghiêng nhẹ ngay giữa mặt sông. Từ trên xuống, ánh vàng lặng lẽ rọi, vướng vào vân, hiện ra bóng mây trôi chậm.
Hai đứa nhỏ đứng sát hàng rào dâm bụt khúc khích. Con Nụ chỉ tay, thì thầm với thằng Cẩm rằng mây đi như thiệt. Một ông lão chòm râu bạc khẽ hừ mũi, nhưng cái hừ không khó chịu. Ông hừ như một người đã từng biết nhìn trời đoán mưa, thấy mây này không làm ướt áo, chỉ làm mắt mát. Ông Sáu đổi cung, tiếng đờn bỗng có tí chênh như người đang bước từ bờ đất xuống bậc nước. Thu An cũng đổi tay, chuyển tấm mica thứ hai, hình bóng lá dừa. Bóng lá dừa rung rung trên mặt nước, rớt xuống mái sân khấu như một cái khăn xanh. Bà Bảy đứng ở mép, mắt không rời những đường chao của bóng. Bà nhận ra tiếng chập chõa vẫn đúng nhịp cũ. Bà nghe mùi lá dứa rõ hơn khi khói gặp ẩm từ nước.
Thu An nâng con rồng xanh lên, ghé nhẹ sau tấm khói. Nó để đầu rồng chỉ xuất hiện phần mắt. Ánh sáng hắt lên lăn tăn như vảy cá gặp nắng. Ông Sáu kéo một câu đờn dài hơn, tiếng chuyển từ non sang sâu, như một người đang kể lại một chuyện trong rừng. Cô Ba gõ thêm một nhịp dồn, rồi lại thả ra. Mọi người ngồi nhìn. Không ai thấy khó chịu. Không ai thấy chói. Một bà cụ thốt nhỏ: “Nước nói trước, đèn nói sau.” Câu ấy rơi vào tai Thu An. Nó cười, mặt nóng như có ai sưởi bằng lửa bếp.
Khi khúc mở màn xong, ông Sáu khép dây đờn, ngó Thu An. Ông không khen. Ông hỏi: “Nếu gió mạnh, bóng mây chạy nhanh, con theo kịp không.” Thu An đáp: “Con sẽ không đuổi. Con để mây đi như gió muốn, con chỉ hạ đèn một chút cho khỏi xô nhau. Con nghĩ rối nước không cần ép trời.” Ông Sáu gật rất nhẹ. Cô Ba nheo mắt: “Bữa diễn lớn, con tính mùi hương ra sao.” Thu An nói: “Con xin lá dứa của nhà. Con đốt ít hơn, để hương như hơi thở. Hít vô biết, hít nữa không nặng. Con sẽ đặt chén nước bên cạnh để khói quấn mềm.” Bà Bảy rót trà mời từng người. Trong ánh nhìn của bà có chút lo đã tan. Nhưng lo khác lại lên. Đó là lo thời tiết.
Đúng khi mọi người còn đang bàn, một cơn gió nóng bỗng phụt lên từ phía vàm. Mặt nước nhăn lại. Có người ngước nhìn mây. Mấy đám mây xám ở xa tụ gần như nhau. Nắng dội vàng lên mái sân khấu rồi kịp tắt. Bờ nước xao xuyến. Chú Năm Tỵ hít một hơi, nói nhỏ như nói với chính mình: “Gió này là gió nổi.” Gió nổi thì có khi mưa, có khi chỉ là dọa. Nhưng ai từng sống bên sông đều biết, gió nổi mà gặp nước lớn là khó đoán. Bà Bảy xiết nhẹ chén trà trong tay, mắt quay sang con gái. Thu An bắt gặp ánh mắt ấy. Nó đưa tay vặn chặt thêm mấy con ốc gắn đèn. Nó đi một vòng dọc mái, kiểm lại những nút dây đã rút. Nó gọi thằng Tín mang ra tấm lưới cũ. Hai đứa dựng lưới quây vòng quanh mép sân khấu phía ngoài, để nếu con nít chạy gần lỡ trượt chân còn có cái níu. Xong xuôi, nó quay lại, nói với mọi người: “Hôm nay mình dừng ở đây. Con xin tập tiếp trong chòi. Không kéo thêm ngoài mái. Nước khó lường.”
Có tiếng xuýt xoa vì tiếc. Nhưng cũng có nhiều cái gật. Cẩn thận là điều mà người làng này vẫn trọng. Trẻ con có đứa tiu nghỉu. Thu An xoa đầu con Nụ, hứa khi nào nước đứng sẽ gọi. Con Nụ cười lại ngay, bảo chị nhớ mời con trước. Bà Bảy nhìn đám nhỏ mà mềm lòng. Bà lật đật xách rổ bánh bèo mang ra, phát mỗi đứa một chén bằng lá chuối. Cái ngọt mặn của bánh làm lũ nhỏ quên bớt sự chờ đợi.
Đám đông tản ra. Mặt sông lại có khoảng không cho gió đi. Thu An thu dọn đèn vào trong chòi, cẩn thận lau khô những chỗ dính hơi ẩm, quấn băng chống nước thêm vòng nữa. Bà Bảy cầm khăn trắng, chậm rãi lau từng đầu rối như lau mặt con nít ngủ trưa. Cô Ba đánh thêm mấy cái chập chõa, nghe cho đã tay rồi cất vào giỏ tre. Ông Sáu gác đờn lên vai, chưa vội về. Ông ngồi lại một chút, nhìn đứa con gái của gánh rối loay hoay với mấy sợi dây, nghĩ thầm con bé này biết sợ đúng lúc. Biết sợ đúng lúc là biết sống với nước.
Đến tối, trời không mưa nhưng ẩm. Hơi nước từ sông bốc lên, thấm vào phên tre, vào mái lá. Thu An mở máy chiếu trong chòi, thử những hình bóng khác. Nó chọn hình bầy chim bay, chọn hình cỏ cây. Mỗi hình nó đều để nhạt. Nó thử bê một tấm bạt nhỏ, đặt trước máy, rọi lên bức vách gỗ. Bức vách bình thường chỉ là hàng cây đen, bây giờ thấy bóng mây mỏng đi ngang, thấy vài cánh chim đậu xuống rồi bay. Nó viết vào sổ: để hình luôn có chỗ nghỉ. Đừng cho bóng đông quá. Đừng kéo mắt người ra khỏi tiếng.
Bà Bảy ngồi ở cửa, giũ lại đống dây cũ bị mục. Bà lựa những sợi còn dùng được, cuộn lại, buộc thành bó. Bà bảo con: “Đời sống không bỏ đi hết. Cái gì còn được thì giữ. Cái gì hư rồi thì dứt.” Thu An dạ. Nó ngẩng lên, ngắm lưng mẹ. Lưng ấy cong vì bùn, vì nước, vì dây, vì những mùa gió chướng. Trong lòng nó, một sợi dây khác cũng được buộc thêm nút.
Đêm ấy, xóm trên có đám giỗ. Tiếng đàn ca vọng xuống bờ nước từng hơi. Một lúc sau, có hai người đàn ông trung niên ghé qua. Người đi trước là chú Bốn Chí, bạn làm ruộng của chú Năm Tỵ. Người đi sau là anh Hai Đực, người từng kéo rối thời trẻ, sau bỏ đi làm công trình, giờ về quê dưỡng mẹ. Họ đứng ngoài cửa chòi, gật đầu chào. Chú Bốn nói: “Nghe tiếng chập chõa lại thấy nhớ. Hồi nào tui bưng đầu rối con trâu mốc mà run bần bật vì nước lạnh. Con trâu nặng quá, tui kéo xiêu vẹo, bị ông Sáu mắng mà vẫn thương.” Ông Sáu cười móm mém, gật đầu. Anh Hai thì ngó những bóng đèn trong tay Thu An, nheo mắt: “Cái này có tốn điện nhiều không.” Thu An đáp: “Không nhiều. Con tính dùng bình sạc, để khỏi kéo dây xa. Mỗi suất diễn nửa giờ thì đủ.” Anh Hai gật gật. Im một chút, anh nói: “Mai tui rảnh, tui phụ dựng lại mấy cái chân sào. Đừng để chân xiêu là sập bữa nào không hay.” Thu An mừng, cám ơn lia lịa. Bà Bảy rót trà, mời hai người ngồi. Trong trà có mùi lá dứa thoang thoảng. Họ uống, nói chuyện mùa nước nổi sắp tới. Mùa tới sớm hay trễ bây giờ không còn chắc như xưa. Đó cũng là điều làm bà Bảy băn khoăn.
Sáng hôm sau, trời dịu. Thu An dậy sớm đi chợ tỉnh. Nó mua thêm băng chống nước, vài ổ cắm chuyên dụng, sợi dây rút mới, một cuộn dây thừng nhỏ và một bịch lá dứa tươi. Nó ghé tiệm gỗ xin mấy mảnh ván thừa để lót chân cọc. Trên đường về, nó mua cho mẹ bó rau đắng. Rau đắng non chấm mắm kho là món mẹ thích. Trên bến, mấy bà đi chợ về cười nói, hỏi nó coi đèn có làm chói mắt không. Thu An cười, nói đèn này như nắng đầu buổi, nhìn không chói. Mấy bà gật gù, dặn khi nào diễn nhớ gọi tụi tui. Thu An gật, lòng nó ấm.
Về đến nhà, nó thấy trước sân đã có mấy chiếc chân sào mới. Anh Hai Đực đang đo đạc, đánh dấu chỗ hạ cọc. Thằng Tín đào hố, mồ hôi trên trán nhỏ giọt. Chú Bốn Chí ôm cả bó tre đi đến, nói tre này là tre nhà chú, dẻo, chịu nước. Bà Bảy đứng cấp nước, tay không ngơi. Cô Ba mang qua rổ xôi bắp, để ai đói thì bốc một nắm. Ông Sáu ngồi một góc mài dây, vừa mài vừa lẩm bẩm mấy câu đờn như nói chuyện với gió. Người làng thấy có người làm, họ đến phụ, không ai kêu, không ai bảo. Cái cách cùng nhau làm một việc ở đây giản dị như cách người ta cắm một cái chong chóng vào bờ đất cho con nít vui.
Khi cọc mới hạ xong, mặt sân khấu bỗng cứng hơn. Những bước chân trên phên bây giờ không còn rung như trước. Thu An chạy thử, cảm thấy lòng mình cũng cứng theo. Nó kéo lưới quây lại mép ngoài, buộc thêm mấy sợi dây an toàn. Nó cột dây theo cách đã học trong trường, nút kéo dễ gỡ nhưng giữ chặt khi bị kéo ngược. Bà Bảy thấy vậy, mỉm cười. Bà biết con gái đã đem điều học được về mà không cố làm khác. Đem về mà không cố khoe là biết tôn trọng đám mây cũ.
Trưa, mọi người ngồi nghỉ. Xôi bắp thơm. Chú Bốn kể chuyện ngày trước lội nước kéo rối, bị đỉa bám, máu rịn mà vẫn ráng vì đang hát tới đoạn vui. Anh Hai kể chuyện đi làm công trình gặp mưa dông bất ngờ, cả giàn giáo rung như con cá lóc giãy. Ông Sáu thì im, chỉ cười, chỉ khi bị gặng mới kể chuyện xưa đi diễn ở đình làng bên, có đứa nhỏ ngủ gật, ông bèn kéo đờn nhỏ lại, để tiếng chập chõa thong thả, rồi thằng nhỏ mở mắt, cười. Người lớn nghe mà cười theo. Tiếng cười có vị lá dứa và vị nước mắm.
Chiều, Thu An lại bật đèn thử, lần này rọi lên nước không phải để khoe, mà để coi coi ánh đi được đến đâu khi mặt trời đứng thấp. Ánh vàng dịu hơn buổi trước. Nó đặt một miếng mica tròn, quay chậm. Trên mặt nước, bóng trăng non hiện ra như một cái nắp vung bằng bạc. Con Nụ kêu khẽ, hỏi đã rằm chưa. Thu An giải thích đây là bóng thôi, rằm thì sáng hơn, tròn hơn. Con Nụ có vẻ hiểu, gật đầu rất nghiêm. Mấy người lớn nhìn nhau, có người khẽ cười. Nhưng nụ cười không phải cười con nít, mà cười ý nghĩ. Ý nghĩ rằng nếu kể Mộc Tinh vào đêm rằm trên mặt nước, bóng trăng sẽ là cái trống trời.
Thu An ghi tiếp: chọn màu ánh như rơm, như mật, tránh trắng lạnh. Hạn chế chiếu thẳng vào mặt người. Dùng khói để làm mềm bờ mây. Để tiếng chập chõa quảy bóng đi, đừng để bóng kéo nhịp. Nó viết gọn nhưng nghĩ dài. Mỗi chữ viết ra, nó thấy như một hạt lá dứa rơi vào chén nước. Hạt rơi đến đâu, thơm đến đó.
Những ngày sau, công việc xoay đều. Buổi sáng chỉnh dây, buổi chiều thử ánh, buổi tối ngồi nghe mưa gõ mái hoặc nghe côn trùng rì rầm. Thỉnh thoảng mưa trái mùa ập đến. Mỗi lần như vậy, Thu An rút dây điện vào, phủ bạt lên máy chiếu, nhìn mặt nước tăng giảm mà thở cho đều. Nó cũng đi nhà này nhà kia, mượn thêm ghế tre, mượn thêm mấy cái đèn dầu cho có ánh phụ nếu điện mất. Nó ghé nhà cô Hai Hột hỏi mượn dàn loa nhỏ, nhưng rồi lại thôi, vì nó sợ tiếng loa làm mỏng tiếng chập chõa. Nó ghé nhà chú Bảy Còng mượn một cái thuyền câu cũ để phòng khi phải chèo ra cứu miếng phên bị trôi. Ai cũng cho, ai cũng dặn coi chừng nước.
Một buổi chiều, bờ bên kia có tiếng gọi lớn. Là mấy người đi khu công nghiệp lâu nay về thăm nhà. Trong đó có thằng Lực từng kéo rối thời thiếu niên. Nó cao lên, nước da sạm, mặc áo phông in tên công ty. Nó nhìn sang bờ bên này, cười cười. Chú Năm Tỵ gọi với: “Về ăn cơm đi bây.” Thằng Lực vẫy tay, rồi hỏi to: “Chừng nào diễn, con coi cho đã con mắt.” Câu hỏi rơi vào không khí như một cái lọng đỏ. Người nghe được thì reo. Người không nghe được thì hỏi lại nhau. Bà Bảy đứng cái dáng nhỏ bên mép, nghe mà lòng chao. Bà nhìn con gái. Trong mắt bà có hỏi. Trong mắt Thu An có đáp. Nó nói không to mà đủ cho những ai cần nghe: “Nếu nước giữ yên, đêm rằm mình diễn. Không phô trương, chỉ kể rành một đoạn chuyện rừng.” Tin ấy chạy dọc theo bờ, qua hàng dâm bụt, vào những căn nhà mái lá. Người ta nói với nhau về đêm rằm sắp tới như nói về một món ăn quen mà lâu chưa nấu.
Đêm rằm còn một tuần. Sáng hôm sau, trời trong. Nước đứng. Thu An quyết định dựng thử toàn bộ một lần trong chòi, để đo thời gian. Nó phân vai với mấy người còn sức. Cô Ba lo nhịp, ông Sáu lo đờn, Tín kéo con trâu mốc, anh Hai kéo rồng xanh, chú Bốn phụ đoạn cá kình. Bà Bảy làm chỉ huy, đứng ngoài nhìn, lúc nào cần thì nói một câu. Tụi nhỏ được cho ngồi xa xa, mỗi đứa một trái cóc xanh chấm muối ớt để khỏi xúm lại.
Lần kéo thử này trôi hơn những lần trước. Ánh của Thu An đi trước một chút, chờ tiếng chập chõa rồi mới chạy. Mỗi lần đổi cảnh, nó tắt đi bật lại rất nhẹ, như ai khẽ đẩy cửa. Khói lá dứa dâng lên ít một, đủ để bóng mây mờ bớt gắt. Có đoạn bóng cây lỡ chạy nhanh vì gió hắt qua cửa, Thu An kịp hạ đèn, để mây chậm lại. Ông Sáu nhìn một lần đó, khen một tiếng hiếm hoi: “Biết nhường.” Chỉ một tiếng ấy, Thu An nhớ cả đời.
Cuối buổi, trời bỗng thẫm. Một vệt mây xám che mặt trời, tiếng gió lùa mạnh qua hàng lá dừa nước. Mặt sông rì rào như ai thì thầm điều gì đó. Thu An ngẩng lên. Kinh nghiệm ít ỏi của nó không đủ đo hết lòng sông, nhưng nó biết vừa nãy nước đứng, mà đứng lâu quá thì tới lượt nó tràn. Lúc ấy, kể chuyện trên mặt nước là đánh cược. Nó liếc qua mẹ. Bà Bảy nhìn thấy con đang cân nhắc. Bà lên tiếng nhẹ mà dứt: “Ngưng ở đây. Nghỉ mươi phút, rồi cột lại dây. Chiều nay không diễn nữa. Để cho nước tự nói.” Mọi người không ai phản đối. Lệnh của bà như một cái nhịp chắc cuối khúc. Người ta thở ra, dắt nhau vào trong, rót trà, ăn cái bánh ít lá gai dì Tám mới mang.
Trong lúc nghỉ, ông Sáu hỏi Thu An: “Đêm rằm con có tính dựng thêm sân khấu nổi ra ngoài không.” Thu An đáp: “Dạ có, nhưng chỉ một nhịp ngắn. Con muốn cho bóng mây được trôi thật trên nước. Mà nếu mưa trái mùa, con rút vào trong ngay. Con không liều.” Ông Sáu gật. Bà Bảy chêm: “Nói trước với xóm. Ai có xuồng thì neo sát vô, ai không có thì đứng xa. Bọn nhỏ phải có người coi. Đêm rằm đông lắm.” Thu An mở sổ ghi thêm một loạt việc: xin mượn xuồng, phân công người đứng coi bọn nhỏ, làm tấm bảng sơ cứu, chuẩn bị áo phao nhỏ, mua thêm đèn dầu, dặn người xem không xô ra mép nước. Nó viết xong thì thấy mồ hôi ở gáy mát lạnh. Việc nhiều nhưng rõ. Rõ là yên.
Chiều muộn, khi mây đã tan, ánh nắng ngả xuống vàng dịu, những con đom đóm bắt đầu thoắt hiện thoắt tắt trên bờ cỏ. Thu An ra mép nước, thử rọi một đốm ánh nhỏ vào vùng cỏ thấp. Đom đóm không sợ. Chúng vẫn bay như thường. Nó chợt hiểu thêm một điều: có những thứ ánh sáng không làm mất đi, nếu ánh sáng biết đứng ở chỗ của nó. Nó lặng người một chút, rồi mỉm cười. Trên trời, trăng đã lên một lằn mỏng như móng tay. Nó tự nhủ sẽ không đuổi theo trăng. Nó sẽ để trăng rọi đâu thì nhận ở đó. Điều nó làm là dọn một mặt sông sạch, một sân khấu chắc, một câu chuyện rành. Phần còn lại là của nước, của trời.
Đêm ấy, hai mẹ con ăn cơm trễ. Rau đắng chấm mắm kho đưa đẩy. Bà Bảy ăn ít, nhưng ăn tới đâu trầm ngâm tới đó. Bà nói: “Ngày xưa người làng đi coi rối vì không có nhiều thứ để xem. Bây giờ điện thoại có đủ. Con nghĩ tụi nó có ở yên để nghe tiếng chập chõa không.” Thu An đáp: “Nếu mình kể rành, tụi nó nghe. Nếu mình kể bằng thứ tụi nó nhìn quen, tụi nó nhìn. Con không chê điện thoại. Con chỉ mượn một chút thói quen nhìn ánh của tụi nó, đem về mà kể chuyện nước.” Bà Bảy gật. Bà đặt chén xuống, lau miệng, nói như kết: “Vậy thì rằm này mình kể. Nhưng kể thì kể vừa, đừng bày đủ thứ làm rối. Người nghe thấy rành là được.” Thu An dạ. Nó biết chữ “vừa” của mẹ là sợi dây thừng vô hình bao bọc việc nó làm.
Lúc đi ngủ, Thu An lật cuốn sổ, viết thêm chữ “vừa” vào trang đầu. Nó nhìn chữ ấy hồi lâu. Nó nhớ buổi trưa mấy hôm trước khi mưa trút xuống, mẹ đã không gọi tên nó, chỉ nâng đèn dầu cao hơn. Đó cũng là “vừa”. Vừa để con thấy đường, nhưng không để con quên tự bước. Nó úp sổ, tắt đèn, nghe tiếng nước thở rất khẽ dưới chòi. Tiếng thở của sông làm người ta buồn ngủ theo một cách dịu dàng. Trong giấc ngủ chập chờn ấy, nó thấy một vệt ánh như sợi chỉ trắng chạy trên mặt nước, nối từ cửa chòi rối ra đến vàm. Đầu sợi chỉ cột vào một cái mỏ neo bằng gỗ. Mỏ neo không to. Nhưng nó nằm đúng chỗ.
Sáng hôm sau, trời xanh như một cái tô úp ngược. Nước lăn tăn vui. Người làng đi ngang ai cũng hỏi rằm mấy giờ. Thu An trả lời đâu ra đó, hẹn người tay trái thì hẹn cả tay phải. Nó đến nhà trưởng ấp xin phép, trình bày kế hoạch, chỉ rõ lối vào, nơi ngồi, chỗ neo xuồng, luật an toàn. Trưởng ấp lắng nghe, gật đầu, dặn thêm nhớ báo công an xã để tối đó có người đứng coi. Thu An cảm ơn, đi về. Nó ghé trường tiểu học xin nhờ mấy thầy cô loan tin cho học trò, dặn bọn nhỏ đi coi phải đi với người lớn. Nó ghé trạm y tế hỏi mượn hộp sơ cứu. Ai cũng cho, ai cũng dặn bình tĩnh. Nó đem cả lòng biết ơn về chòi rối.
Bà Bảy hôm ấy bỗng ít nói hơn thường. Bà ngồi lâu ở bậc hiên, nhìn mặt nước, tự hỏi mấy đời gánh rối nhà mình, đời nào là khó nhất. Đời nào cũng khó theo kiểu của nó. Đời của bà khó vì thiếu người, vì cái nghề không nuôi được bụng no. Đời của con khó vì nước đổi tính, vì trời đổi mùa. Nhưng ít nhất con cũng có những con mắt khác để nhìn một chuyện cũ. Biết đâu cái khác ấy lại là chiếc xuồng nhỏ chở tiếng chập chõa qua những bờ mới. Nghĩ vậy, bà lặng lẽ đứng dậy, đi vào chòi, thay lại tấm vải phủ bàn thờ Tổ bằng một tấm vải mới do chính tay bà may. Trên mép vải, bà thêu một đường chỉ xanh. Đường chỉ ấy không cầu kỳ, nhưng đều. Bà thêu chừng mực, chữ “vừa” như đã nằm sẵn trong mũi chỉ.
Chiều buông, khói bếp lên, mùi cá kho len vào gió. Thu An xếp đèn, cất mica, ráp lại khung rối, kiểm lại từng sợi dây. Nó nhìn mặt sông, thấy mình trong đó. Trước mắt nó là rằm đang đi đến. Sau lưng nó là bờ người đang chờ. Ở giữa là chòi rối với bàn tay bùn và những bóng sáng đang học nói nhỏ. Nó hít một hơi dài, nghe mùi lá dứa, rồi bật cười một mình. Cuộc sống nếu có mùi, chắc cũng là mùi như vậy, mùi mới mà không lạ, mùi lạ mà không xa.
Đêm nay là đêm cuối trước khi treo bảng mời. Bà Bảy viết vài dòng bằng phấn trên một tấm ván: “Rằm, kể tích Mộc Tinh. Xin ngồi yên, giữ an toàn.” Chữ bà đẹp, thẳng hàng. Bà đem tấm ván ra dựng trước bờ dâm bụt. Đám trẻ chạy ngang, đọc ê a rồi chỉ tay, mắt sáng như ánh đèn nhỏ của Thu An. Tiếng chúng gọi nhau lan rất nhanh. Tiếng ấy có khi làm người lớn thấy ồn. Nhưng đêm rằm mà không có tiếng con nít thì rối nước buồn hơn nước vắng gió.
Trên mái lá, hàng đèn lặng im như những con cá ngủ. Dưới nước, tấm mica im như đôi mắt khép. Trong chòi, những đầu rối nằm bên nhau, lắng nghe tiếng sông thủ thỉ. Người làng, mỗi người một việc, đi qua đi lại mà lòng đánh dấu một điểm hẹn. Điểm hẹn ấy không phải ở chỗ đèn choáng, cũng không phải ở chỗ tiếng đờn lạ. Điểm hẹn ấy nằm ở chỗ người với nước ngồi lại, chạm tay vào nhau, kể một đoạn chuyện cũ theo một cách mới mà vẫn nghe ra tiếng của mình.
Rằm chỉ còn vài ngày. Và câu chuyện đã có khói, có nước, có ánh đi bên. Điều còn lại là sự bình tĩnh. Sự bình tĩnh của một gánh rối biết cột thêm một nút, ngủ sớm một đêm, dậy sớm một buổi, nhìn trời, nhìn nước, nhìn nhau mà gật, rồi làm. Ở nơi làng chài này, người ta không quen nói những lời lớn. Người ta chỉ quen làm nhỏ một việc cho chắc. Và trong cái chắc ấy, có khi lại chứa cả một trời mơ.
Bình luận
Chưa có bình luận