Chương 1: Bến nước trở mình


 

 

Con nước sáng ấy ròng chậm, mặt sông Hậu kéo dài như một tấm lụa nâu. Làng rối của bà Bảy nằm dựa lưng vào hàng dừa nước, trước mặt là một khoảng vịnh nhỏ do bờ đất lở ra tạo thành cái ao trời. Bên mép nước, mấy cái chân sào cũ của sân khấu rối nước còn cắm chòng chành như những cây đinh gỉ, dây buộc sơ sài đã sờn xơ, cột tre rạn nứt. Từ trong chòi chứa rối, tiếng mối gặm gỗ rì rì như tiếng thở dài. Bà Bảy ngồi trên bộ ván, đôi bàn tay nứt nẻ úp lên cái khung đầu rối đã lỏng sơn, ngón út trái có một vệt sẹo dài vì năm nào kéo dây không khéo để dao bén phạm vào. Mắt bà nhìn ra sông, nghe tiếng mái chèo khua lạch cạch của chú Năm Tỵ đang đưa ghe chài qua bờ đối diện, khói cơm trưa của xóm trên bay xuống lẫn trong mùi lá dứa phơi nơi hàng giậu.


Vài năm nay, gánh rối gia truyền yếu dần như một người già suy phổi. Đám thanh niên trong làng rủ nhau đi làm khu công nghiệp tận Bình Dương, Đồng Nai. Thằng Thức, thằng Lực trước đây đỡ dây rối rất khéo, bây giờ mặc áo phản quang đứng canh cổng nhà máy. Con Hường biết hát chập chõa bằng giọng cao trong như tiếng gió qua tàu lá, nay làm công nhân may, tay thoăn thoắt mà lòng thì thở dài. Còn lại dăm người lớn tuổi, người đau lưng người đau đầu gối, đứng dưới nước lâu là chân co rút. Mỗi lần bà Bảy đốt hương cúng Tổ, bà lại khấn nhỏ, mong có ai đó về phụ một tay, giữ giùm tiếng nước nói cùng tiếng gỗ. Bà khấn xong, thổi nhẹ, mùi hương quyện vào mùi gỗ mục, nghe ngòn ngọt mà buồn.


Bà có một đứa con gái tên Thu An. Tên ấy do ông Sáu Nhơn, thầy đờn cò, đặt giùm khi nó chào đời. Ông nói con gái sinh lúc nước lớn thì nên đặt tên có chữ “An” để đời nó yên, để nó đứng trước sóng gió vẫn biết cách thở đều. Thu An lên Sài Gòn học thiết kế ánh sáng. Nó đi mà mắt luôn ngoái lại, thấy bà đội nón lá đứng bên mé sông, khuôn mặt sạm nắng nhưng cười hiền. Ngày nó nhập trường, bà Bảy gói cho mấy ký khô cá lóc và một xấp lá dứa khô để ai nhớ nhà thì đốt cho thơm. Mấy năm trời, trong những đêm thành phố sáng rực như chợ hội, Thu An vẫn nghe mùi lá dứa trong trí nhớ. Có đêm nó ngồi trong phòng trọ, cầm cái bóng đèn led nhỏ xíu, lật qua lật lại, tưởng tượng nếu chiếu ánh sáng lên mặt nước liệu mấy con rối gỗ nhà mình có lấp lánh khác xưa không. Nghĩ vậy nhưng nó không dám nói với mẹ. Nó sợ cái ánh nhìn nghiêm mà thương của bà, sợ cái lắc đầu của ông Sáu Nhơn, sợ cả tiếng thở dài của xóm.


Sáng hôm nay, ghe khách từ chợ tỉnh cập bến. Thu An bước xuống, vai đeo balô, tay ôm một thùng giấy, sau lưng là một túi vải căng phồng. Nó đi đôi dép xẹp gót để khỏi lạch bạch, áo thun cũ, quần jean bạc, tóc buộc cao. Nó đứng lại hít một hơi thật sâu. Mùi nước lợ, mùi bùn, mùi phèn, mùi khói bếp, mùi lá dứa treo khô, tất cả trộn lại thành một thứ mùi chỉ quê nó mới có. Nó cười, nụ cười rộng như cái vàm sông trước mặt, rồi bước nhanh trên con đường đất đỏ dẫn về nhà. Bầy gà mái tơ chạy lạch bạch né qua một bên, con chó mực của chú Năm ngoe nguẩy đuôi sủa mấy tiếng lấy lệ, rồi lại nằm phơi bụng dưới bóng cây ổi.


Bà Bảy thấy bóng con gái, bà không gọi, cũng không đứng lên vội. Bà cứ ngồi yên như một khúc gỗ nằm phơi từ lâu bên bờ nước. Thu An bước vào sân, cúi đầu chào, giọng nó dày theo gió: “Con về rồi nè má.” Bà Bảy gật gật, mắt ươn ướt mà miệng vẫn cứng: “Về rồi hả con. Nước ròng bữa nay êm. Bữa qua mưa trái mùa, sợ mái dột, má ngủ không yên.” Thu An đặt thùng giấy xuống, kéo ghế tre lại gần mẹ. Nó không vội khoe những thứ mang về. Nó biết phải ngồi rất im bên mẹ trước đã, nghe mẹ kể chuyện con cá trê hôm nọ táp mồi gãy cả lưỡi câu, chuyện cái cây dừa sau nhà lên được đọt mới, chuyện dì Tám đầu xóm gả con gái mà chú rể đi làm xa không về kịp, đành cưới qua màn hình điện thoại đặt giữa bộ ván như đặt một cái đèn lồng. Bà kể lâu, câu nào cũng giản dị, nhưng giọng bà có những chỗ rơi xuống như một khúc sông sâu. Thu An đặt bàn tay mình lên khung đầu rối dưới tay mẹ, cảm cái mát của gỗ. Những năm đi học xa, nó vẫn mơ những đầu rối nhà mình biết cựa, biết thở.


Đến khi tiếng gà trưa gáy dai, bà Bảy mới hỏi: “Con mang gì nhiều vậy.” Thu An cười, tay nó mở thùng giấy, lôi ra những cuộn dây điện mềm, những bóng led nhỏ như hạt bắp, một cái máy chiếu cỡ bằng cuốn sách con, vài tấm mica trong suốt được cắt thành hình sóng nước, cây, chim. Nó bày ra bàn như bày cá tươi ngoài chợ. Ánh nắng xiên qua phên tre, dọi vào những mảnh mica làm chúng phản chiếu lấp lánh như vảy cá. Bà Bảy chớp mắt, tay bà bất giác rút lại khỏi khung đầu rối, như sợ mình làm bẩn những thứ trong veo trước mặt. Bà hỏi chậm: “Cái chi mà sáng quá vậy con.” Thu An nói nhỏ, giọng nó cố dịu: “Đèn đó má. Nhưng đèn này mát, không phỏng. Con tính thử gắn vài bóng lên mái sân khấu, với đặt mấy tấm mica dưới nước, để ánh sáng phản chiếu lên mặt sông. Con còn nghĩ dùng máy chiếu để tạo bóng cây, bóng mây. Mình kể tích Mộc Tinh, có mây, có rừng, có nước, có lửa, tất cả đều thấy được. Mà con không làm ồn đâu, không phá gì hết, con tính hỏi ý má với mấy chú mấy cô trong gánh rồi mới dám đụng tay.”


Bà Bảy không nói ngay. Bà rót chén nước trà, nhấp một hớp. Trà đắng nhẹ. Bà nhớ ngày xưa ông nhà bà đứng dưới nước kéo rối, lưng ông còng theo nhịp trống. Ông mê cái nghề này như mê hơi thở. Ông hay nói với bà ở rối nước, nước là da, bùn là thịt, gỗ là xương, dây là gân, tiếng chập chõa là nhịp tim. Mỗi thứ đều có hồn riêng. Bây giờ con bé nói đến đèn, đến máy chiếu, đến mica, bà nghe như có một làn gió khác lùa qua hiên. Bà chưa biết gió ấy mát hay gắt. Bà hỏi: “Con học cái này mấy năm rồi ha.” Thu An gật: “Dạ bốn năm. Con ở Sài Gòn mà lòng con cứ trôi về đây hoài. Con nhìn ánh đèn tòa nhà, con nhớ đom đóm đêm nước nổi. Con coi mấy sô diễn ngoài công viên, con lại nghe tiếng chập chõa má gõ, nhớ tiếng ông Sáu Nhơn lên dây đờn cò rồi kéo một câu dài như con nước lập. Con sợ mất nghề, má à. Con sợ một bữa kia ai hỏi rối nước là gì, người xóm mình im lặng.”


Bà Bảy nhìn con gái. Mắt nó sáng nhưng không đỏ. Giọng nó run nhưng vững. Bà đặt chén trà xuống, tiếng chén chạm mặt bàn khẽ như tiếng hạt mưa rơi trên tàu lá chuối. Bà không gật, cũng không lắc. Bà nói: “Ăn cơm đã. Để coi.” Câu của bà lúc nào cũng ngắn. Trong cái ngắn ấy có đường đi của bà, có nhịp thở của con nước ròng, không vội, không hấp tấp.


Trưa, cả nhà chỉ có hai người. Thu An nhóm bếp củi. Nó bẻ mấy lá dứa khô, vò nhẹ cho thơm rồi bỏ vào nồi nấu nước. Hơi nước bốc lên, thơm nhè nhẹ. Nó kho nồi cá linh bằng nước mắm nhà, rắc tiêu đen, thả vài trái ớt hột. Bà Bảy rửa nhúm rau muống hái trước sân. Hai mẹ con ăn cơm, tiếng đũa khua đều, thỉnh thoảng bà nhắc nó gắp thêm. Ăn xong, bà mới lấy chùm chìa khóa cũ đưa cho nó: “Chìa chòi rối đây. Con vô dọn lại. Chiều mời chú Sáu, cô Ba, dì Tám qua coi con tính làm gì. Cái gì của Tổ thì phải nói trước mặt Tổ.” Thu An nhận lấy, tay nó hơi ấm lên như đụng vào thứ lửa hiền.


Chòi rối là căn nhà sàn nhỏ trên mép nước. Cửa gỗ cũ có những đường nứt chạy như sông con. Bên trong, đầu rối xếp trên kệ, mỗi cái một khuôn mặt, một tính tình. Ông lão bán rượu, cô thôn nữ bưng thúng, thầy tu có bộ râu dài, con cá kình há miệng, con rồng xanh quẫy đuôi, con trâu mốc kéo cày, con cò đen đứng một chân. Sàn nhà còn vương vệt bùn khô do đợt diễn cũ. Thu An đi từng bước, đụng tay vào từng cái đầu, lau cho sạch bụi. Nó nhấc con rồng xanh lên, thấy lớp sơn đã bạc màu, mép môi nứt, răng gỗ mòn. Nó lấy khăn mềm, chấm ít nước lá dứa lau nhẹ. Mùi thơm lan ra, hòa với mùi gỗ. Nó mỉm cười, nhớ hồi nhỏ cứ chạy vô chạy ra chòi, bị mẹ la vì sợ té xuống nước. Mỗi lần bị la, nó ôm đầu rối mà nín, mặt dụi vào lớp sơn thơm ấy.


Nó kéo mấy tấm mica ra đặt sát cửa sổ để coi ánh sáng. Những tấm trong suốt ấy phản chiếu bóng những tàu lá dừa đong đưa, bóng nước lăn tăn. Nó chợt nghĩ, nếu dùng mica như một lớp da mỏng đặt trên mặt sông, ánh đèn led nhẹ nhàng rọi lên, mình có thể vẽ mây, vẽ cây bằng bóng, dựng núi bằng khói lá dứa, gọi thần rừng bằng tiếng trống chập chõa. Nó ghi chép nhanh vào cuốn sổ tay, từng dòng chữ gọn gàng. Nó vẽ sơ mấy vị trí bóng đèn, ghi chú gắn ở đâu để không chói mắt, để nước vẫn là nước. Nó nhớ lời thầy dặn ở trường: ánh sáng tốt là ánh sáng không nhảy lên trước câu chuyện. Nó tự hứa với mình không để đèn lấn tiếng gỗ, chỉ dìu dắt như một người bạn đi bên lề bờ ruộng.


Chiều xuống, gió từ sông thổi vào mát ngọt. Mấy chiếc ghe chài về bến, cá trong thùng lấp ló vảy. Chú Sáu Nhơn chống gậy lên chòi, râu bạc rung rung theo nhịp bước. Ông đặt cây đờn cò xuống, ngồi trên ghế tre, rót trà, hỏi không vòng vo: “Con tính gắn đèn vô nước hả.” Thu An đứng trước ông, hai tay đan vào nhau, nói rõ ràng: “Dạ, con tính gắn đèn lên mái, không bỏ đèn xuống nước. Con dùng tấm mica để phản chiếu, với thắp ít lá dứa để có khói thơm. Con muốn kể tích Mộc Tinh bằng bóng sáng, cho lũ nhỏ dễ thấy rừng, thấy mây. Con sẽ để tiếng chập chõa dẫn dắt. Con không thay nhạc, không thay lời, con chỉ thêm ánh thôi. Con muốn mời chú kéo thử một đoạn, để con điều ánh theo dây chú.”


Ông Sáu Nhơn nhíu mày. Con mắt cụp xuống của người kéo đờn lâu năm đọc ánh sáng khác với người bình thường. Ông biết ánh sáng mà chói là hỏng, ánh sáng mà phô là sai. Ông gõ gõ móng tay lên mặt bàn. Bà Bảy ngồi đối diện, không thúc ép ai. Cô Ba Lài, người chuyên gõ chập chõa, đến sau, tay còn mùi bồ hòn vừa chà nồi xong. Dì Tám Kẹo mang theo rổ bánh ít lá gai mới gói. Mấy người ngồi vòng tròn, im im nghe tiếng nước vỗ mạn chòi.


Thu An lấy máy chiếu ra, cắm thử vào ổ điện mà nó đã kiểm tra, rọi một đốm sáng nhỏ lên vách. Nó không rọi trắng. Nó chọn một sắc vàng dịu như màu rơm phơi hiên. Nó đưa tấm mica lên, xoay nhẹ. Trên vách hiện ra bóng lá dừa rung rinh, bóng mây trôi ngang. Nó hạ thấp đèn cho bóng mây đi sát mặt nước. Rồi nó bẻ nhỏ ít lá dứa bỏ vào lò hương, khói xanh lên vừa đủ, mùi thơm lẩn trong mùi trà. Nó nói: “Con mượn chú một câu đờn.” Ông Sáu nhấc đờn, kéo nhẹ một hơi. Tiếng đờn cò vỡ ra như gió lướt qua bờ bãi. Cô Ba gõ chập chõa chen vào, nhịp không vội. Thu An điều chỉnh ánh, để bóng mây trôi đúng nhịp chập chõa. Nó đặt một đầu rối rồng xanh ở mép, để đầu rồng lấp ló sau làn khói. Cả chòi im lặng.


Đoạn đờn dứt, ông Sáu đặt cây đờn xuống, nhìn đốm sáng như nhìn một đứa trẻ. Ông không khen, cũng không chê. Ông hỏi: “Mộc Tinh là rừng. Rừng của mình đâu còn dày như hồi xưa. Con sẽ làm cái rừng nào cho tụi nhỏ hiểu đây.” Thu An đáp: “Con nghĩ rừng là cảm giác. Mình kể đêm rừng bằng bóng lá dừa nước nhà mình, bằng tiếng chập chõa, bằng mùi lá dứa, bằng tiếng nước gõ mạn. Con không trồng cái rừng lạ, con in bóng rừng từ những thứ mình có. Con không mượn tiếng ngoài. Con nghĩ nếu bóng đúng nhịp, tụi nhỏ sẽ thấy rừng trong trí tưởng của tụi nó.” Ông Sáu gật rất nhẹ. Cô Ba nhìn sang bà Bảy. Dì Tám Kẹo bẻ chiếc bánh ít, đưa mỗi người một nửa. Bột mềm, nhân dừa ngọt vừa. Bà Bảy ăn một miếng, ngó con gái, nói: “Vậy thì thử. Nhưng con nhớ, mình thử chứ chưa phải đổi. Cái gì thành rồi thì cũng phải trả giá. Mà đã cúng Tổ thì phải làm cho ngay ngắn.”


Tin đồn lan nhanh hơn gió. Chập tối, mấy đứa nhỏ kéo nhau tới ngó lén chòi rối. Thằng Hào, thằng Cẩm, con Thơm, con Nụ đứng ngoài hàng rào dâm bụt, mắt tròn như hột nhãn. Thằng Hào hỏi nho nhỏ: “Chị An ơi, mai có rối không.” Thu An đi ra, xoa đầu tụi nhỏ: “Mai chưa. Để chị dựng lại sân khấu đã. Khi nào có, chị gọi. Chị nhờ mấy đứa đi rủ bạn bè nha.” Tụi nhỏ gật đầu cái rụp, cười khì, rồi chạy đi khoe với người lớn.


Đêm xuống, ngọn đèn dầu trong nhà bà Bảy sáng vàng, lửa đom đóm lấp ló ngoài vườn chuối. Bà Bảy lấy ra cái hộp gỗ nhỏ đựng giấy sắc phong Tổ nghề đã ngả màu. Bà thắp nhang, lạy ba lạy, nói khẽ: “Con gái con về. Nó muốn thêm ánh cho nước. Xin Tổ chứng. Nếu có trái ý, xin Tổ gõ cho con biết.” Mùi hương hòa với mùi lá dứa còn sót trên chòi. Thu An đứng sau lưng mẹ, không chen lời. Nó chỉ cúi đầu, lòng nó như mặt sông phẳng mà dưới ấy có dòng ngầm. Nó sợ. Nó sợ làm sai. Nó cũng mong. Nó mong ánh sáng có thể gọi người ta trở lại bên nước, như mùi cơm canh gọi người xa xứ về nhà.


Rạng sáng hôm sau, con nước bắt đầu chuyển. Nước lớn dần, mang theo rác rưởi lềnh bềnh, cả những cánh bông điên điển vàng tươi. Thu An thức sớm, vác chùm dây, đem ra mé sông. Nó đo đạc mái sân khấu, buộc lại dây chằng, đóng thêm mấy cây cọc tre, gọi thằng Tín hàng xóm ra phụ vác tấm phên. Thằng Tín là một trong những đứa ít ỏi còn ở lại làng. Nó làm ruộng, không khéo nói nhưng tốt bụng. Nó cười: “Chị làm cái này lạ nghen. Nghe nói đèn đóm chi chi.” Thu An cười lại: “Ừ, đèn mà không giống đèn. Đèn để thấy nước rõ hơn.” Tín gật, vai nó chắc, tay nó bấu vào thân tre, mắt nó nhìn theo hướng Thu An chỉ.


Hai đứa lặn hụp dưới nước cạn, chỉnh lại đường ống dẫn rối, thay dây mục bằng dây mới. Thu An trồi lên thở, cười với Tín như cười với nước. Bà Bảy đứng trên bờ, tay cầm khăn trắng, canh chừng tụi nhỏ có trượt chân không. Bà không nói nhiều. Nhưng thỉnh thoảng bà nhắc: “Dây đó cột thêm nút. Cọc đó đóng sâu hơn chút. Tấm phên này đừng để phơi nắng quá.” Những điều nhỏ nhặt ấy như câu ru ngủ. Thu An nghe từng lời, làm theo. Nó hiểu sự bền chắc không nằm ở những thứ to, mà ở chỗ người ta có kiên nhẫn cột thêm một nút, đóng sâu hơn một phân, chịu ướt thêm vài phút.


Trưa lên, trời bỗng nắng gắt. Hơi nóng làm gương mặt sông chói lóa. Thu An kéo mái che bằng tàu lá dừa. Nó gắn mấy bóng led thử một hàng nhỏ ở rìa mái. Cô Ba gõ chập chõa một chút nhịp, nghe tiếng gõ vang mềm. Ông Sáu kéo một hơi đờn rất ngắn, như gọi người bạn cũ. Ánh sáng trên mái được bật chớp, rồi dịu lại. Thu An chỉnh độ sáng cho thấp, để bóng của mái in xuống mặt nước nhẹ như chiếc khăn. Nó ngừng tay, nhìn mặt sông. Trong khoảnh khắc đó, nó thấy tuổi thơ mình chạy chân trần trên bến, thấy mẹ đứng cầm đèn dầu đợi cha từ ao rối trở lên, thấy ông Sáu cười móm mém, thấy dì Tám mang bánh, thấy những người đã rời làng, thấy cả những khu công nghiệp phía xa với hàng đèn trắng lạnh, như một bầu trời khác. Tất cả chen chúc trong mắt nó, không đánh nhau, chỉ đứng cạnh nhau mà thở.


Buổi chiều, mây kéo về từ hướng rừng tràm. Gió đổi chiều, mùi bùn rõ hơn. Bà Bảy nhìn lên, thở ra một tiếng: “Mưa trái mùa nữa đó.” Mưa trái mùa nhiều năm nay như người khách không mời mà tới, lúc dồn dập, lúc tạnh ngang. Nó làm lúa úng, làm cá tràn bờ, làm sân khấu rối nước có khi trôi lềnh bềnh. Thu An đứng trên bến, nhìn xa. Những cụm mây đen chụm lại như những cái nong úp. Nó nghĩ đến buổi diễn mà mình mơ, nghĩ đến ánh sáng chạy trên mặt nước, nghĩ đến lũ trẻ ngồi bệt trên bờ, nghĩ đến tiếng người già vừa xem vừa trách yêu. Nó cũng nghĩ đến nước dâng, đến dây trôi, đến mái ngã. Nó rùng mình.


Đêm đó, mưa thật. Mưa dội như ai trút. Nước từ mái nhà chảy thành dòng. Bà Bảy cột lại cửa, dặn con rút bớt dây điện, cất máy chiếu vào trong. Thu An chạy ra chòi rối, khom người ôm mấy đầu rối nặng mà lòng như ôm mấy đứa trẻ ngủ mớ. Nước mưa tạt vào mặt, mặn lợ như mồ hôi. Nó cột lại mấy mối dây, lấy vải quấn quanh chân cọc. Gió lùa qua, chòi rối rền rền như cái trống to. Trong cơn mưa, nó nghe tiếng chập chõa vọng từ nhà cô Ba, tiếng gõ chậm, như ai nói bình tĩnh. Nó quay về, nhìn mẹ đứng trong cửa, tay cầm đèn dầu, ánh lửa hắt lên gương mặt nâu. Bà không gọi. Bà chỉ giơ cao ngọn đèn, để con gái thấy đường trở vô.


Mưa kéo dài đến khuya mới ngớt. Con nước lớn theo mưa, bờ ranh giữa ao trời và sông mờ đi. Thu An nằm trên bộ ván, bên tai nó là tiếng nước rút dần khỏi bậc thềm. Nó không ngủ ngay. Nó nghĩ đến những thứ phải làm sáng mai. Nó nghĩ đến chuyện mai phải chạy qua chợ tỉnh mua thêm mấy đoạn dây chống thấm, nghĩ đến việc xin chú Năm Tỵ mượn tấm lưới cũ để quây quanh phần sân khấu cho an toàn, nghĩ đến chuyện tìm trong xóm người nào bơi giỏi phân công coi chừng bọn nhỏ nếu nước dâng. Nghĩ nhiều quá, mắt nó nặng. Trước khi chìm vào giấc, nó chợt nghe tiếng mẹ trở mình. Tiếng trở mình của người già nghe như một bờ đất lở xíu, không lớn, nhưng làm người ta chú ý. Thu An trở dậy, kéo chăn cho mẹ. Bà hé mắt, hỏi nhỏ: “Con thức hả.” Thu An đáp: “Dạ con tính ngủ. Mai con ra bến sớm.” Bà nói: “Ừ. Đừng quên xin phép Tổ trước khi ráp đèn. Cái gì cũng có mắt.” Thu An gật đầu trong bóng tối. Nó tin có những con mắt mình không thấy. Nó tin nếu mình làm tử tế, những con mắt ấy sẽ chớp chớp, không giận.


Sáng ra, trời quang. Mấy vệt mây đêm qua đã tan ra thảnh thơi. Nước còn cao nhưng rút từ từ. Gà gáy. Tiếng mái chèo lại lạch cạch. Bà Bảy bưng nhang ra chòi rối, gọi con: “Lại đây.” Hai mẹ con đứng trước bàn thờ Tổ, đặt giữa chòi. Bàn thờ giản dị, chỉ có bức ảnh cũ mờ, một chén nước lã, một dĩa trái ổi hái sau nhà. Bà châm nhang, đưa cho con một cây. Cả hai lạy. Bà khấn: “Xin Tổ cho tụi con làm. Không phải để phô trương. Chỉ mong gánh rối còn người xem.” Thu An ngậm đầu lưỡi, không dám để lời lớn. Nó nhớ cha. Nó nhớ lần cuối thấy cha kéo dây con cá kình, nước bắn lên mặt, cha cười mà ho. Nó nhắm mắt, thấy ánh đèn ở Sài Gòn nhỏ lại như đom đóm.


Khi khói nhang bay thẳng, hai người mới bắt tay vào việc. Thu An bắt đầu gắn thử hàng đèn đầu tiên. Nó lựa vị trí không chói, dùng dây rút loại mềm để nếu có rủi ro, dây tuột chứ không kéo sập mái, lại dễ tháo lắp khi cần. Nó quấn băng chống nước quanh đầu nối. Nó ghi chú vào sổ những điểm cần gia cố. Bà Bảy đứng kế bên, tay luôn sẵn sợi dây thừng, mỗi khi thấy con dừng tay là bà đưa, chẳng cần nói. Sự hiểu nhau ấy làm công việc trôi như nước ròng.


Gần trưa, ông Sáu Nhơn lại qua. Ông đứng xa, nhìn một hồi, rồi mới nói: “Chiều kéo thử một đoạn cho coi.” Thu An mừng. Nó quay qua cười với mẹ, cười với nước, cười với những con rối đang tựa nhau ngủ trên kệ. Lũ trẻ đứng ở hàng rào chờ, mắt long lanh. Một bà cụ đi ngang, hỏi lớn: “Coi chừng đèn làm mất hồn nước đó nghen.” Thu An quay lại, chắp tay: “Dạ con nhớ. Con xin hứa để nước nói trước.” Bà cụ gật đầu, đi chậm mà an lòng hơn một chút.


Mặt trời đứng bóng. Tiếng chim trên rặng bần kêu khẽ. Trên bến, một hàng bóng đèn mới gắn đã nằm yên, không chói mắt, không khoe mẽ. Dưới mặt sông, tấm mica đang chờ một tia sáng đầu tiên để vẽ mây. Bên bàn thờ Tổ, hai nén nhang cháy dở còn khói xanh. Ở nơi này, mọi thứ đều đi theo nhịp chậm của nước. Cái gì cũng cần thời gian thấm vào gỗ, vào bùn, vào tay người.


Chiều nay sẽ kéo thử. Chỉ kéo một đoạn thôi, để coi ánh và tiếng có biết nói chuyện tử tế với nhau không. Cũng để xem gió mưa có nương tay cho một ước muốn nhỏ. Thu An đứng trên bến, thở đều. Lòng nó bình như mặt sông vừa rút. Ở phía cuối chân trời, mấy đám mây trắng nổi lên như những chiếc buồm nhỏ, trôi chậm chậm về phía vàm. Con nước trở mình. Làng rối hít một hơi dài. Và câu chuyện bắt đầu nhẹ như lá dứa khô vừa được bẻ ra cho thơm gian bếp.



0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout