Thanh thay đổi rồi.
Như chồi non vùi mình suốt cả mùa đông đằng đẵng, chỉ chực thấy hơi xuân là hồi sinh, thi nhau mọc lên trong làn mưa bụi rải rác khắp đất trời. Âm thầm, sẽ sàng và mau lẹ. Để rồi khi cậu trai láng giềng kịp nhận ra, gã thầy đồ tự xưng là tri kỉ của cậu ấy đã trở thành một phần không thể thiếu trong gia đình cậu.
Đầu tháng Chạp, Thanh tạm dừng lớp học con con, cái lớp chẳng còn mấy mống học trò mà phần nhiều đều là con em những nhà neo người, chỉ đi buổi đực buổi cái để dành thời gian đỡ đần cha mẹ, sửa soạn cho ba ngày Tết. Không phải quanh vào đám học trò, y vốn đã nhàn hạ nay lại càng thảnh thơi. Chán trà tàu, thuỷ tiên, câu đối rồi, y bám riết lấy Hạo, xem cậu lo liệu từng chút một cho cái Tết đang gần kề. Y theo cậu đi chợ, mang về đủ thứ lỉnh kỉnh. Nào cành đào thắm cắm trên bàn thờ, nào mấy bánh pháo đốt mừng đầu năm, nào hai cây mía làm gậy cho ông vải và đủ loại hoa quả. Y kè kè bên cậu, giúp cậu đủ thứ việc. Tân trang nhà cửa từ trong ra ngoài, lau dọn bàn thờ gia tiên, bày mâm ngũ quả, cắm cành đào thắm. Rồi làm mứt, muối dưa hành, gói bánh chưng. Thanh không nề hà việc gì, dù là lớn hay nhỏ, dù bản thân y còn vụng về, phải nhờ Hạo sát sao chỉ bảo từng li từng tí.
Hạo sẽ cho đó là thường, nếu Thanh chỉ làm bộ tò mò và tỏ vẻ háo hức như con trẻ đỡ đần cha mẹ những ngày giáp Tết. Nhưng lạ ở chỗ y lại chủ động nhận hết việc về mình, lại tỉ mẩn và nhiệt thành như thể chuyện cậu cũng là chuyện y, như thể y là nàng dâu mới đang cố thu vén cho cái Tết đầu tiên ở nhà chồng. Đến cả mâm cơm cúng chiều ba mươi, mặc kệ bà Thi và Hạo khuyên can hết lời, y vẫn xắn tay áo, xách cổ con gà, xăng xăng đòi làm lông, cắt tiết.
“Thầy giúp tôi thế là nhiều lắm rồi. Con gà này cứ để tôi lo. Nếu để mẹ tôi biết tôi bắt thầy làm mấy việc này thì…”
“Cậu bắt tôi làm bao giờ. Là tự tôi đòi đấy chứ.”
“Thì đúng là thế, nhưng mà…”
“Cậu đừng cuống lên thế, có gì to tát đâu. Chỉ là vặt lông cắt tiết gà, tôi làm được.” Thanh cười mỉm, giọng điệu hóm hỉnh lạ thường. “Với cả ban nãy mẹ cậu cũng nói rồi còn gì. Thân là đàn ông, không biết ra ngoài làm được công to việc lớn gì cho làng cho nước, nhưng về đến nhà thì phải xử lí được con gà dâng lên các cụ. Vặt lông, cắt tiết, chặt gà. Mới có tí việc còn làm chẳng xong thì lấy vợ thế nào được.”
Một thoáng bồi hồi nhen nhóm trong lồng ngực trẻ. Không rõ người trước mặt đang đùa hay nói thật, Hạo đành hỏi lại với vẻ ngô nghê: “Thầy... muốn lấy vợ rồi à?”
Thanh lắc đầu, miệng vẫn tủm tỉm: “Vợ thì không có, nhưng mà... tôi cũng đến tuổi an phận rồi. Trôi hoài trôi mãi, cuối cùng đò cũng phải cập bến thôi.”
Rồi kệ cậu trai kia, y bỏ lửng câu nói, cứ thản nhiên gieo mầm tương tư vào cõi lòng ngổn ngang trăm sợi tơ xe dở. Chưa. Y tự nhủ với mình. Chưa phải lúc.
Tối ba mươi, không khí bên trong căn nhà vách đất của Hạo sôi nổi hơn hẳn ngày thường. Chỉ là thêm một cái bát, một đôi đũa, một chén rượu, bên mâm có thêm người ngồi, vậy mà tiếng nói cười cứ rỉ rả như ve kêu mùa hạ, vang mãi chẳng ngừng. Bà Thi thích chàng thầy đồ nhà bên lắm. Có lẽ là vì ở y có gì đó gợi cho bà nhớ về người chồng đã khuất bóng gần hai chục năm. Cũng có thể là bởi nhà này vừa chịu cái ơn to bằng trời của đồ Thanh, và y thì vẫn vậy, vẫn tỉ mỉ ân cần, chẳng nề hà chuyện con trai bà như những người khác. Bởi thế, bà đâm ra quý đồ Thanh cũng phải. Suốt bữa cơm, bà luôn miệng nhắc con gắp những miếng ngon phần y, đến cả bát hoa thuỷ tiên y dâng lên biếu bà cũng được khen không ngớt lời.
“Mới chừng ấy tuổi mà thầy đã có ngón nghề khéo quá. Phải nhà tôi còn sống, dễ ông ấy cũng không chê được vào đâu.”
“Cụ khen thế làm con thẹn với lòng. Mấy năm qua con bỏ bẵng thú chơi thuỷ tiên, mãi đến nay mới học đòi gọt lại nên tay còn vụng, vẫn phải nhìn người ta mà cố gắng thêm nhiều.”
Thoạt đầu, câu chuyện bên mâm cơm tất niên chỉ xoay quanh thú chơi thuỷ tiên, cái nghề dạy chữ của đồ Thanh và ông cụ thân sinh đã khuất núi của Hạo. Bấy giờ Thanh vẫn lễ phép, vẫn khách sáo gọi bà Thi một tiếng cụ, tự xưng mình là con. Dần dà, bạo dạn hơn, thân quen hơn, y đổi giọng thưa gửi tự nhiên như phận con cháu trong nhà.
“Bác muốn ra ngoài một lát cho thoáng ạ? Dạ phải. Ở mãi trong nhà suốt cũng thấy bí, mà tầm này ngoài trời đang đẹp, không mưa rét, không lầy lội. Dạ? Hạo còn bận vài việc dưới bếp, bác để cháu cõng cho. Thưa, cháu nói thật đấy, bác đừng ngại. Trông cháu thế thôi nhưng cháu khoẻ lắm. Sức cháu cõng được, bác đừng lo.”
Rồi y khom lưng, khuỵu gối, cẩn thận đỡ lấy bà Thi, để bà quàng tay qua vai, dựa hẳn vào người mình. Cứ thế, một thân trai tráng cõng một thân già cả, vừa dạo vòng quanh sân, hít hà không khí đất trời, vừa cậy nhờ, hứa hẹn với nhau những điều quan trọng trước thềm năm mới. Từ trong mái nhà lụp xụp trông ra, Hạo thấy lòng mình xuyến xao đến lạ, bên tai lại văng vẳng lời mẹ thủ thỉ với hương hồn cha buổi chiều hôm trước.
“Cái thằng Thanh ấy có lòng với mẹ con tôi quá. Chỉ là hàng xóm thôi mà nó ăn ở chẳng chê vào đâu được. Giá thằng Hạo nhà mình là con gái thì tôi đã mong chúng nó đến với nhau. Thời buổi này, tìm đâu ra mặt rể hiền như thế... Chỉ tiếc... chỉ tiếc trời sinh hai đứa chúng nó là đàn ông…”
Trời về khuya. Tiếng pháo nổ rộn ràng khắp làng trên xóm dưới. Tiếng cười đùa từ các nhà vọng ra, nhộn nhịp hơn cả ban ngày. Trong khoảnh khắc con người và đất trời cùng reo mừng năm mới, chỉ có cơ ngơi đồ sộ ngay bên nhà Hạo là im lìm. Không râm ran pháo nổ, chẳng rỉ rả nói cười, chỉ leo lắt một ngọn đèn sáng. Quay lại nhìn mẹ đã thiếp đi lúc nào không hay, cậu kéo chăn, dém kín bốn góc màn rồi tạt qua thăm gã tri kỉ lúc này vẫn còn cô đơn lẻ bóng.
“Cậu đến rồi à?” Nhác thấy bóng cậu, gương mặt kẻ nọ như đèn dầu được khêu thêm bấc, sáng bừng cả mấy gian nhà. Y cầm bánh pháo dài bằng gang tay, hớn hở mà rằng: “Tôi mong cậu mãi.”
Trông bánh pháo còn nguyên trên tay y, sẵn lòng hiếu kì, Hạo hỏi luôn: “Sao thầy chưa đốt pháo?”
Thanh đáp như một lẽ đương nhiên: “Tôi chờ cậu mà.”
“Sao phải chờ tôi?”
“Vì có cậu, Tết mới là Tết. Nếu không có cậu, tôi sẽ chẳng bao giờ để tâm đến mấy thứ này.”
Dứt lời, Thanh châm lửa đốt pháo. Lửa bén vào sợi tim, những quả pháo nhỉnh hơn đầu đũa một tí chỉ chực chờ đến phiên mình là thi nhau nổ, tạo ra tiếng đì đẹt vui tai. Nhìn làn khói xanh uốn lượn trong tiết trời se lạnh, ngắm xác pháo đẹp tựa những cánh hoa đỏ thắm rơi rụng trước sân nhà, Hạo ôm ngực, tưởng đâu có ai nhảy vào lòng mình rồi châm lửa đốt ở đó. Đắn đo hồi lâu, cuối cùng cậu vẫn hỏi Thanh điều mình canh cánh suốt cả buổi.
“Ban nãy thầy với mẹ tôi... hai người nói với nhau những gì mà tôi trông mẹ có vẻ vui thế?”
Thanh cúi người hòng tìm được quả pháo xịt lẫn trong đống xác pháo đỏ thẫm, nhưng bới đi bới lại, ngó tới ngó lui vẫn không thấy quả nào xịt, y đành tự nhủ mình châm khéo quá, có bao nhiêu quả thì nổ cả bấy nhiêu. Thế là y đứng dậy, vừa phủi xác pháo rơi trên vai mình và Hạo, vừa cất bước vào trong nhà.
“Cũng chẳng có gì. Chỉ là vài chuyện liên quan đến cậu thôi.”
Thanh đáp lưng chừng rồi dừng lại, nhưng đúng là chuyện chỉ có vậy. Y và bà Thi nào còn điểm gì chung để nói với nhau nhiều điều đến thế, trừ cậu trai tên Hạo là cầu nối giữa hai người. Trong khoảnh khắc cuối cùng của năm cũ, bà nói thật với y rằng bà sợ mình chẳng còn sống được bao lâu. Độ này bà thấy trong người khác trước nhiều quá, đêm lại nằm mơ thấy cảnh năm xưa sinh Hạo, ông chồng đứng bên và định dắt thêm một hồn nữa về chốn cửu tuyền. Bà không sợ chết, bởi đời bà đã nhiều phen chết hụt và bà cũng vun vén hết sức có thể cho gia đình chồng, cho chồng, cho con gái. Chỉ còn thằng con trai này... Bà không đành lòng nhắm mắt khi con mình còn lầm lạc giữa dâu bể đa đoan, còn bị đoạ đày vì lòng người nhiễu nhương khó đoán. Rồi bà gửi gắm con mình lại cho Thanh. Bà bảo nếu y không thể dẫn nó trở lại đường ngay thì chí ít... chí ít cũng hãy để nó được hạnh phúc khi chỉ còn lại một mình.
“Mấy ngày gần đây, tôi cứ mải nghĩ về chuyện thằng con nhà tôi. Chừng ấy tuổi đầu mà nó cứ lông bông mãi, không được ổn định như thầy. Lại thêm cả chuyện đấy nữa... Tôi chỉ mong nó sớm ngày tu tỉnh, lấy vợ sinh con cho thân già này được nhờ. Nhưng nhìn nó và thầy thế này... tôi lại nghĩ khác…”
“Dạ thưa, ý của bác... cháu chưa hiểu.”
“Thằng con tôi từ bé đã khác người, không chơi thân được với ai. Đến cả mẹ và chị nó, nó cũng im ỉm, chẳng mấy khi chịu nói cho chúng tôi biết nó đang nghĩ gì. Nhưng thầy thì khác. Từ ngày thầy về đây, nó tươi tỉnh hẳn, cười nhiều hơn, cũng không lầm lì như xưa nữa. Tôi thấy nó quý thầy lắm đấy. Nó thân với thầy có khi còn hơn cả tôi và con Cúc. Nếu là thầy nói, biết đâu nó lại chịu nghe. Thế nên tôi đành phiền đến thầy. Mong thầy bảo ban thằng con nhà tôi, giúp nó tu tỉnh mà về lại đường ngay. Còn không thì... cứ cho nó làm gì nó thích. Chí ít cũng hãy để nó được hạnh phúc khi tôi khuất bóng, bỏ nó lại một mình.”
“Thưa vâng. Điều bác gửi gắm ở cháu, cháu xin nhận. Với cháu, Hạo không khác gì người trong nhà. Chính cháu cũng muốn cậu ấy được hạnh phúc như bác và cô Cúc đây. Vậy nên dù xảy ra chuyện gì đi chăng nữa, cháu vẫn sẽ ở bên cậu ấy, coi hạnh phúc của cậu ấy quan trọng hơn hết thảy mọi sự trên đời.”
Thế đấy. Suốt cả buổi tối, họ chỉ nói với nhau có vậy. Xét ra đó chẳng phải bí mật gì to tát, cũng không phải chuyện tế nhị khiến người khác khó xử, song, trực giác mách bảo Thanh chưa nên nói cho Hạo biết. Chí ít là bây giờ, khi y còn chưa dám chắc chuyện tương lai, khi lòng y còn mải vương vấn bao điều khác.
Bỏ dở câu chuyện đang nói ở đấy, Thanh trở vào buồng trong, lục lọi một hồi rồi mang ra chai rượu trong vắt, vàng nhạt, vừa nhìn đã biết là rượu ngon. Đẩy đĩa bánh khảo sang một bên, lại sửa soạn thêm hai cái chén con con mà ngày thường y quý hơn bạc vàng, xong xuôi, y mới cất tiếng hỏi: “Thử một chén chứ?”
Hạo gật đầu, chẳng nói chẳng rằng, cứ thế đưa tay đón lấy chén rượu con con được thầy Thanh rót cho. Rượu thơm mùi gạo nếp, uống vào có vị ngọt, cay cay, tuy không sánh được với rượu làng Vân, Gò Đen hay Bầu Đá nhưng ắt hẳn vẫn là rượu quý. Thế là cậu mượn luôn chai rượu của người trước mặt, tự rót thêm cho mình một chén, tiện thể hỏi một câu: “Rượu này từ đâu ra vậy?”
Thanh đáp ngay: “Rượu lễ của người xin chữ ấy mà.”
Hằng năm, mỗi dịp Tết đến xuân về, người ta lại kéo nhau đến nhà ông đồ xin chữ. Mong điều gì thì xin thầy chữ ấy, lễ lạt thường là chai rượu ngon, lon gạo nếp, khoanh giò lụa hoặc nải chuối đẹp. Bao năm rồi y mới lại kinh qua cái cảnh sống nhờ đất thiên hạ, nhận lễ kẻ lạ mà cho chữ người đời. Nhưng đó không phải điều Thanh bận tâm. Ngay lúc này đây, y cầm chén rượu hết vơi lại đầy trên tay, miệng trả lời nhát gừng mà tâm trí thì còn mải canh cánh về một điều gì khác. Để rồi khi chợt nhận ra, chai rượu ban nãy đã vợi đi non nửa. Hạo cản y lại, không cho y uống bạt mạng như thế nữa.
“Rượu ngon đến mấy cũng không thể uống vô tội vạ vậy được. Thầy uống ít thôi kẻo mai lại không dậy nổi.”
“Cậu nói phải lắm. Làm gì cũng cần có chừng mực.” Miệng đáp thế mà tay chẳng biết lấy đâu ra nậm rượu khác rót cho cả hai. Y quả quyết bằng giọng sẽ sàng: “Nhưng riêng hôm nay, tôi muốn say.”
Nghe vậy, Hạo tròn mắt ngạc nhiên, nhưng chỉ trong thoáng chốc. Đón lấy chén rượu mới người kia rót cho, cậu đổi ý: “Rồi rồi. Để tôi uống với thầy. Đêm nay, ta cùng say.”
Khuya. Tiếng pháo mừng xuân rụng dần rồi lịm hẳn trên bậc thềm để ngỏ. Nền gạch thấp thoáng mấy vệt sáng lóng lánh, la liệt toàn những chai nậm rỗng không. Dưới đất, bốn chiếc guốc nằm đè lên nhau, cũ mới lẫn lộn. Trên phản, hai mái đầu xanh chụm lại, lồng ngực thổn thức một nhịp đập chung. Chưa ai vội lên tiếng. Thời gian như ngừng lại và không khí thì nhập nhằng dịu êm. Đôi trẻ say rồi. Nửa vì rượu. Nửa vì những tâm sự nơi gan ruột cứ chất chồng rồi đầy ứ, chỉ chờ để giãi bày.
Và lạ thay, khác hẳn bao bận trước, lần này Thanh lại là người mở lời. Y mượn hơi men, gom hết can đảm gợi chuyện.
“Tôi kể cho cậu bí mật của tôi nhé.” Dưới ánh sáng hắt ra từ cây đèn sắp cạn dầu trên bàn thờ ngày Tết, giọng y nhỏ giọt, chẳng tròn vành rõ chữ như ngày thường: “Thật ra tôi đớn hèn lắm, chẳng đáng để mọi người đề cao thế đâu. Tôi... tôi đâu phải người giỏi giang, đâu phải kẻ ôm hoài bão lớn lao như mọi người vẫn tưởng.”
Đã lâu lắm rồi, lâu đến độ y không còn nhớ chuyện xảy ra năm nào và mình nghe từ miệng ai. Chỉ biết từ khi ý thức được những điều xảy ra chung quanh mình, y đều nghe mọi người kháo nhau cùng một lẽ, rằng đứa con cả của cụ Nguyễn là con giời con Phật xuống đây để nếm trải thế thái nhân tình. Lời ấy một đồn mười, mười đồn trăm, chẳng ai đủ tài phép mà kiểm chứng, song đúng là số y ấm êm, đường đời bằng phẳng, không bao giờ biết vấp ngã là gì. Năm lên bảy, cậu Thanh họ Nguyễn đã thuộc nằm lòng mấy rương sách cũ của ông nội, bỏ qua giai đoạn ê a mấy cuốn Tam tự kinh, Sơ học vấn tân, Minh đạo gia huấn mà ngồi chung lớp với các trò lớn. Mười chín tuổi, đứng đầu kì khảo hạch và liền đó là đỗ giải nguyên ở kì thi hương. Thấy y làm gì cũng thuận lợi, ai nấy đều chắc mẩm tài và chí y vượt xa người thường, ắt hẳn nay mai sẽ dựng nên nghiệp lớn, tiếng thơm để lại muôn đời. Đến cả y cũng từng đinh ninh mình sẽ sống như thế.
Nhưng rồi mọi điều y tin tưởng bỗng đổi ngoặt kể từ lần gặp gỡ định mệnh. Ngày xem bảng, y quen một anh học trò nhà nghèo, đến tấm áo tạm gọi là lành nhất để dành mặc đi thi cũng điểm vài mụn vá. Anh ta kể rằng mình đi thi đã mấy bận, xem bảng cũng nhiều lần, thấy mọi người đều nóng lòng coi cho biết mình vào hay không, vui buồn hiện hết lên mặt. Chỉ có Thanh là khác hẳn. Y cứ bình bình, dáng điệu lủi thủi giữa đám đông hăm hở có thể nói là lạc lõng. Thấy lạ, anh ta tìm cớ làm quen, sau đó mới biết mọi việc với y đều suôn sẻ ngay từ lần thi đầu. Dần dà, qua đôi câu chuyện, hai bên thân nhau hơn, anh học trò nọ kể cho Thanh nghe về cảnh ngộ đời mình, về cô vợ bán sức bán ruộng cho chồng năm lần bảy lượt đi thi, về lí tưởng vực lại một gia tộc lụn bại và gánh lấy trách nhiệm với làng, với nước. Khi ấy, nhìn ánh mắt gã trai nọ sáng rực vì đeo đuổi bao hoài bão lớn lao, biết lồng ngực trẻ đương kề cận ăm ắp một bầu máu nóng, Thanh chợt nhận ra mình mới là kẻ tay trắng. Hoá ra từ trước đến nay, y chỉ sống theo cái khuôn đúc từ miệng lưỡi người đời. Một cuộc sống tầm thường, tẻ nhạt, không có nghĩa lí gì. Hoá ra nào giờ y chẳng có gì cả. Lí tưởng. Khát khao. Mục đích sống. Tất thảy y đều không có. Một điều cũng không.
“Chúng tôi bặt tin nhau từ đấy. Tôi không rõ sau đó anh ta có đậu hay không, lí tưởng anh ta nêu ra đã thực hiện được chưa hay còn lỡ dở, nhưng tôi tin dù gặp phải chuyện gì, anh ta vẫn sẽ không bỏ cuộc. Còn về phần tôi, năm ấy tôi bỏ lại tất cả rồi đi... Đi, chẳng vì lí do gì đặc biệt. Tôi đi hết nơi này đến nơi khác chỉ vì chân chưa muốn nghỉ, nhưng càng đi lại càng lạc lối. Ở đấy, tôi gặp rất nhiều người, nhưng chẳng có ai giống tôi. Họ đều biết mình là ai, biết mình sinh ra ở đời để làm gì, còn tôi…” Ánh sáng trong mắt y tắt dần rồi ngả hẳn sang màu tro tàn ảm đạm. “Hoá ra mọi người, thầy tôi, rồi tôi nữa, đều đã nhầm. Tôi đâu phải chim bằng hay cá kình mọi người vẫn kể, đâu giỏi giang cao cả như mọi người vẫn nghĩ. Xét cho cùng, tôi chỉ như con đò trôi dạt nay đây mai đó vì muốn tìm ra lẽ sống của mình. Chỉ vậy thôi.”
Nói xong câu ấy, Thanh quay đi, ngả hẳn về phía khuất ánh đèn dầu. Y sợ nếu không giấu mình trong bóng tối, cậu trai y quan tâm sẽ nhìn thấu hết thảy. Hết thảy, chẳng chừa điều chi, cả những gì xấu xí, tầm thường, tẻ nhạt y vẫn thường giấu kín sau vỏ bọc hoàn hảo trưng ra trước mặt người đời. Rõ ràng đây là điều y muốn. Y đã mong chờ khoảnh khắc này bấy lâu, khoảnh khắc được lột bỏ tấm da người để linh hồn hiện ra, trần trụi và nguyên thuỷ. Vậy mà ngay lúc này đây, khi mong muốn trở thành sự thực, y lại đâm ra thấp thỏm như kẻ có tội đang chờ phán quyết của quan trên, và lời chối từ của cậu trai kia sẽ là án tử kết liễu một kiếp người lạc loài.
Ngọn đèn trên bàn thờ đã đi hết quỹ đời của mình. Dầu cạn, bấc tàn. Mấy gian nhà gạch bị màn đêm đen đặc nuốt chửng. Đôi trẻ không thấy rõ dáng hình nhau, chỉ lờ mờ cảm nhận được có người lại gần. Người ấy lần tìm bàn tay nọ trong bóng tối, cẩn thận đan từng ngón từng ngón một, để hơi ấm bên mình chạm đến đầu quả tim của kẻ kia.
“Thầy biết không, hồi còn bé, tôi đã tự cho mình là đứa vô dụng vì chẳng làm gì nên hồn. Tôi nhỏ thó, sức yếu, không phụ mẹ được nhiều việc như trẻ con nhà người. Mẹ gửi gắm hi vọng nơi tôi, phải nai lưng è cổ mà chắt chiu bốn quan, chạy chọt ba cái tết trong năm cho tôi đi học, vậy mà tôi lại phụ lòng mẹ. Tôi ngu dốt, mãi chẳng nhận được mặt chữ, thua xa chúng bạn cùng học nhà thầy. Mấy đứa khác học xong lớp vỡ lòng, được ngồi chung với các anh lớn mà học kinh truyện rồi, tôi vẫn bập bẹ Tam tự kinh, đến tên mình cũng chẳng nhớ cách viết.”
“Mẹ tôi vẫn bảo làm trai tức là đã hơn chị hơn mẹ rồi đấy. Làm trai... là gánh vác được nhiều thứ cho mẹ, cho chị, cho vợ con được nhờ. Nhưng tôi tự thấy mình còn kém chị, kém nhiều lắm. Chị tôi chỉ học bằng sách của tôi và thằng cu nhà hàng xóm mà đã đọc thông viết thạo. Chị tôi học một biết mười, còn tôi thì mười chữ hoạ hoằn mới nhớ được hai. Nếu được đi học, ắt chị cũng chẳng thua kém đứa con trai nào, có khi còn làm nên nghiệp lớn. Sau này mẹ tôi bệnh, chị tôi bỏ hẳn sách vở, chuyển sang gánh gồng chạy chợ để kiếm thêm tiền thuốc thang cho mẹ. Chị tôi nhìn xa, dám nghĩ dám làm, lại có duyên bán hàng nên đắt khách, tiền kiếm đủ để nuôi ba miệng ăn. Tôi cũng thử học đòi buôn bán giống chị nhưng vốn kém cỏi, làm ăn thì mãi lối cò con nên chẳng bao giờ khá lên được. Thế đấy. Trời sinh tôi là đàn ông nhưng đến thân mình tôi còn không gánh nổi, nói gì đến chuyện làm chỗ dựa cho người khác.”
Bóng tối nuốt chửng mọi âm thanh của cuộc sống thường nhật. Tiếng pháo nổ, tiếng cười đùa, tiếng gió lùa khe cửa bỗng rủ nhau đi đâu hết, để hai nửa hồn sứt sẹo ở lại trong một thế giới hoàn toàn tĩnh lặng. Lời Hạo vừa nói, Thanh nghe cả mà tạc vào lòng từng chút một. Thấy cậu rẻ rúng thân mình, y không im lặng được nữa, đành cất giọng nửa hờn nửa thương: “Cậu đâu phải hạng vô dụng. Cậu sắc sảo, biết thương và nghĩ cho người khác, biết quán xuyến mọi việc trong nhà. Cậu dũng cảm, chẳng sợ mình khác người, dù gặp gian khó cũng không chùn bước. Thử hỏi mấy ai rơi vào hoàn cảnh này được như cậu.” Trống ngực đập mỗi lúc một mau, y thổ lộ, dịu dàng mà quả quyết: “Nhờ cậu, tôi mới biết mình thiếu gì, muốn gì, và cần gì. Có cậu mới có tôi giờ đây, một tôi vẹn tròn. Vậy nên, xin cậu đừng coi thường bản thân mình như thế.”
Nghe thế, Hạo hỏi lại, dí dỏm như đang đùa: “Thật vậy chăng? Thầy thực lòng nghĩ tôi là người như vậy, mặc kệ kẻ khác vẫn cho rằng tôi vô dụng vì chẳng làm được những việc đàn ông thường làm?”
“Phải. Cậu là cậu, cậu có cuộc đời của mình, cần gì phải ép bản thân đi theo con đường của người khác.”
“Vậy còn thầy? Sao thầy lại ép mình phải sống như họ?”
Thanh im lặng trước câu hỏi ấy. Hạo cũng chưa cần y trả lời ngay, cứ thản nhiên thốt ra những lời xuất phát từ tận đáy lòng.
“Thầy tự cho mình kém cỏi vì thầy chỉ nhìn thấy ưu điểm của người khác, còn những gì tốt đẹp nơi thầy, thầy lại lờ đi, coi đó là hiển nhiên. Thầy giỏi giang, học một biết mười, ấy là điều đáng quý. Thầy thừa nhận mình còn thiếu sót, chuyện ấy đâu phải ai cũng làm được. Đến cả việc thầy chọn cuộc đời lang bạt vì muốn kiếm tìm bản ngã của mình cũng vậy. Nếu là tôi, tôi dám chắc mình chẳng được như thầy, chẳng dám bỏ lại quê hương thân thuộc để sống nay đây mai đó ở những miền đất xa lạ thế đâu.”
“Thầy bảo tôi dũng cảm, không bao giờ chùn bước trước miệng lưỡi người đời. Ấy là thầy đề cao tôi quá. Cũng có lúc tôi sợ mà thoả hiệp với thực tại, cũng có lúc tôi lừa mình dối người, cố sống sao cho thật bình thường. Mãi đến khi gặp thầy, có thầy ở bên, chịu lắng nghe những lời tôi nói, chấp nhận những gì nơi tôi mà thiên hạ cho là gàn dở, tôi mới có sức để đấu tranh và sống đúng với bản thân mình. Thầy bảo nhờ tôi, thầy mới tìm thấy cái tôi toàn vẹn, vậy thì tôi cũng thế. Có thầy mới có tôi của bây giờ. Vậy nên thầy đừng nghĩ bản thân kém cỏi, chẳng sánh được với ai. Thầy chỉ cần là thầy. Với tôi, ấy chính là điều tuyệt vời nhất.”
Màn đêm đen đặc chảy tràn mọi nẻo trong mấy gian nhà, bao phủ cả gương mặt đang kề cận, gương mặt quen thuộc đến độ từng theo y vào tận cõi mộng xa xăm, thành thử y không thấy rõ cảm xúc của cậu ấy. Y chỉ nghe tiếng cậu bên tai, chân thành, tha thiết. Y chỉ cảm nhận được hơi ấm nơi da thịt chạm nhau lan toả mọi ngõ ngách trong cơ thể, làm sống dậy cả mảnh hồn vốn đã cằn khô. Mắt ước nước, giọng cũng nhoè dần: “Cậu... luôn khiến tôi phải bất ngờ.”
Hạo làm như không hay biết sự khác thường nơi Thanh, vẫn cứ hóm hỉnh mà rằng: “Ừ đấy, tôi luôn dở hơi khiến thầy phải bất ngờ hết lần này đến lần khác đấy. Tôi dở hơi, thầy khác người, thế mới xứng lứa vừa đôi.” Rồi cậu đổi giọng thủ thỉ tâm tình: “Thật ra... nghe thầy kể, tôi mừng lắm.”
Trong bóng tối, đôi trẻ không thấy rõ dáng hình nhau, nhưng cậu vẫn lờ mờ nhận ra Thanh đang nhìn mình. Ánh nhìn như một con thú non vừa rời ổ, đong đầy những hoang mang, nghi ngờ, lấp loé đâu đó cả mấy tia sáng chờ mong đối với người đầu tiên vươn tay về phía nó.
“Trước giờ thầy chẳng bao giờ chịu kể về mình cho tôi nghe, tôi cũng không biết gì về thầy. Tôi... Thú thực là tôi lo lắm. Thầy là ai, thầy từ đâu đến, trước kia sống ra sao, gia đình thế nào... Tất cả tôi đều không biết. Có những đêm tôi nằm nghĩ vẩn vơ mà đâm ra lo sợ, sợ rằng một ngày nào đó thầy sẽ đột ngột biến mất, mà tôi thì lại không biết đi đâu để tìm thầy. Nhưng bây giờ đã khác. Bây giờ tôi mới nhận ra hơn cả việc thầy là ai, trước kia sống ở đâu, sống như thế nào,” Hạo đặt tay người kia lên ngực mình mà rằng, “tôi muốn biết những gì thầy đang cất ở đây.”
Những cảm xúc cất trong trái tim thầy.
Thanh hỏi như để xác nhận: “Cả khi đó chỉ là những nỗi sầu vẩn vơ, vụn vặn, vô cớ mà chính tôi còn chẳng rõ?”
Hạo đáp luôn, mắt lấp lánh như sao trời: “Phải. Tôi muốn nghe, muốn tạc vào lòng tất thảy về thầy, cả những điều nhỏ nhặt nhất.”
Cậu ấy không chối bỏ con người đớn hèn này. Cậu ấy nâng niu cả trái tim yếu mềm bấy lâu vẫn lạc lối. Lần đầu tiên, Thanh cúi đầu, chẳng thèm ngăn lại dòng nước mắt chảy dọc theo đôi gò má. Y khóc, khóc vì niềm vui sướng tột cùng khi được tái sinh. Dường như y dành cả quãng đời nổi trôi tạm bợ chỉ để đổi lấy khoảnh khắc này đây, khoảnh khắc được một ai đó trong vô vàn những người ngoài kia chấp nhận mọi thứ thuộc về mình.
Rồi, thình lình, y cất tiếng hỏi cậu trai đang nắm tay mình một câu mà hai người đều không ngờ đến: “Tại sao cậu lại... thích cậu ta?”
Cậu ta ở đây là ai, chẳng cần Thanh phải chỉ mặt điểm tên, Hạo cũng biết. Là cậu hai nhà bá Khường, là gã trai bắt đầu mọi chuyện bằng một tiếng yêu để rồi khi tai hoạ ập đến, cậu ta sẵn sàng phủi tay, lạnh lùng bỏ cậu lại giữa đời cho thiên hạ giày xéo. Cậu ta là nguồn cơn của những vết sẹo còn hằn trên tấm da cậu khoác lên người, cậu ta là cái dằm cắm ngập buồng tim, hễ nhớ về là lại nhức nhối như muốn nhắc nhở cậu đừng tin nhầm kẻ đểu cáng. Nếu là bình thường, hẳn Thanh sẽ không hỏi cậu câu này và cậu cũng sẽ tìm cớ lảng đi. Nhưng đêm nay, có gì đó giữa họ đã đổi khác. Vận mệnh đi chệch quỹ đạo, trái tim trong ngực cũng không còn chịu sự sai khiến của lí trí thông thường.
“Thầy nhầm rồi. Tôi không thích anh ta.” Hạo trả lời, giọng nhạt như nước. “Có lẽ là vì bấy lâu nay tôi cô đơn, lại thêm bản tính yếu hèn nên chỉ cần có người giống mình một chút, đối xử dịu dàng với mình một chút là tôi sẽ mềm lòng mà xuôi theo người ta. Chỉ vậy thôi.”
Chẳng hiểu sao khi nghe cậu nói thế, Thanh lại thở phào một hơi như trút được gánh nặng. Y hỏi tiếp: “Vậy... tại sao cậu lại... thích đàn ông?”
Phải rồi. Tại sao nhỉ?
Không thèm nghĩ ngợi, cậu đáp luôn: “Tôi không biết nữa. Trên đời này có nhiều điều tồn tại mà chẳng cần lí do.”
Vì sao con người lại phải lòng nhau? Vì sao cậu lại thương một người đàn ông mà không phải đàn bà như bao gã trai khác trên đời? Cậu không biết, cũng không cần biết, bởi tình yêu vốn dĩ đã là tiếng nói riêng của trái tim, không thể dùng lí trí tỉnh táo để quyết định mình sẽ yêu ai, yêu họ vì điều chi, và yêu từ khi nào.
Y lại hỏi: “Cậu không sợ à? Khi thấy mình khác mọi người đến thế?”
“Sợ chứ.” Cậu thành thật trả lời. “Ban đầu khi mới phát hiện mình thích đàn ông tôi cũng sợ lắm, nhưng dần dà rồi thôi. Bởi tôi nhận ra mình không sai, có chăng là tôi khác với phần đông mọi người. Đơn giản là thế.”
Cậu sợ. Sợ lắm chứ. Từ khi sinh ra đến giờ, cậu chỉ nghe người ta nói âm dương hoà hợp, trai gái yêu nhau, nào biết cũng có người như mình tồn tại trên cõi đời này, thân đàn ông mà lại thích đàn ông. Cậu không dám nói với mẹ và chị, đi đường không dám ngẩng cao đầu, sợ mọi người chú ý tới. Lúc bị bắt tận giường khi đang oằn mình dưới thân cậu hai, cậu cũng sợ, sợ đến nỗi rúm ró cả người, sợ đến độ chẳng thể thốt ra một câu hoàn chỉnh để biện minh cho bản thân giữa cảnh tủi nhục và ê chề ấy.
Nhưng rồi ngẫm lại, cậu thấy mình không sai. Hoàn toàn không.
Có lẽ là do men say, cũng có thể là xúc động vì đây là khoảnh khắc giao thời giữa năm cũ và năm mới, bên cạnh lại là tri kỉ nửa đời mới gặp, cậu sẵn sàng giãi bày tất thảy những suy tư suốt bấy lâu nay vẫn chôn chặt dưới đáy lòng. Chẳng giấu giếm điều chi, cũng chẳng giữ lại gì cho riêng mình.
“Mọi người cho rằng tôi sai vì tôi khác họ, vì việc tôi làm khác với lẽ thường họ dựng nên. Nhưng khác đâu phải tội lỗi gì, bản thân mỗi người đã là một sự khác biệt đó thôi.”
“Thầy thử nghĩ mà xem. Con người ta ở đời khác nhau vì nhiều lẽ. Khác ở tên gọi, vóc dáng, sở thích, tính tình... Không ai giống ai hoàn toàn. Họ đề ra những tiêu chí ấy để phân biệt người này với người kia. Bản thân mỗi người đã là một sự khác biệt, vậy tại sao ta lại phải đem lòng thù ghét một người chỉ vì người ấy không giống mình kia chứ?”
“Cơ thể này là mẹ cha ban cho tôi. Cuộc sống này là tôi vun đắp từng ngày. Trái tim này thổn thức trong lồng ngực tôi. Họ có quyền gì ép tôi phải từ bỏ bản ngã của mình?”
“Tôi tin ở đâu đó trên thế gian này vẫn có những người như tôi. Những người đàn ông thích bếp núc, đa sầu đa cảm, thích đàn ông. Chúng tôi vẫn tồn tại, chỉ là người đời chưa chịu nhìn nhận và chấp nhận chúng tôi thôi.”
“Tôi tin rồi một ngày nào đó, chúng tôi sẽ được nhìn nhận là những người bình thường.”
Ngọn gió ở đâu thổi tung cánh cửa. Không còn gì có thể ngăn mình nữa, ánh trăng lạ lùng vốn chẳng xuất hiện ở đêm ba mươi ùa vào nhà, chảy tràn trên nền gạch đỏ sậm, soi tỏ cả ánh mắt ngỡ ngàng của người đàn ông lúc nào cũng ra vẻ thong thả điềm nhiên như tiên trên trời.
Đây là lần đầu tiên y kinh ngạc đến vậy.
Quen nhau đã lâu, y tự cho mình là kẻ hiểu Hạo hơn bất cứ ai trên cõi đời này. Y biết tính cậu khác người, thích bếp núc, đa sầu đa cảm, thích đàn ông, nhưng không hề hay biết cậu lại có những suy nghĩ vượt lên trên tất cả mọi người như thế. Những tưởng là rồ dại, hoang đường, nhưng lại như vẽ ra trước mắt y một tương lai.
Một tương lai mà không ai trong số họ có thể đoán được.
Một tương lai mà có lẽ khi còn ở trên đời này với cái tên Hạo, cậu chưa thể chạm đến.
Một tương lai... mà y sẽ tự kiểm chứng.
Ánh trăng tinh nghịch vẫn cố nán lại thế giới riêng của đôi trẻ. Nó đậu trên vai, in trong đáy mắt, dõi theo mọi sự đổi thay giữa hai người. Nó thấy hai má cậu trai trẻ đỏ ửng, sương giăng đầy đôi mắt thường ngày vẫn sáng trong. Nó thấy máu rần rật nơi mang tai người đàn ông, gân xanh hằn trên cổ như thể y đang cố kìm lại điều gì đó.
Và, giữa đêm tình mùa xuân đẹp như đêm nay, nó trông thấy một thoáng chạm nhẹ giữa hai đôi môi mềm. Khẽ khàng, như là gió thoảng qua.
Bình luận
Chưa có bình luận