One for sorrow
Two for joy
Three for a monster
Four for a boy
Five for the dark
Six for light
Seven for a tale
Never to be told
Tiếng còi tàu huýt dài khi giảm tốc độ để vào ga gọi Omen tỉnh dậy.
Gã ngay lập tức hối hận vì đã ngủ quên khi cơn buồn nôn đắng chát nhợn lên ở cổ họng, đầu lưỡi thì cứ tanh tanh vị cá dù gã đã chẳng đụng đến dù chỉ là một cái vảy suốt cả tháng nay. Tiếng còi inh tai dội vào màng nhĩ Omen, càng làm cơn nhức đầu của gã tệ hơn. Mái tóc đã xổ tung từ lúc nào không biết, gã vừa túm đống tóc dài đến tận eo vừa ngáp sái cả quai hàm, điên thật, có lẽ việc mất ngủ dài ngày này ảnh hưởng đến gã nhiều hơn là gã nghĩ. Bà lão ngồi bên cạnh đã vội vã xuống tàu từ giây đầu tiên khi cửa mở ra, này nhé, dáng ngủ gã có hơi xấu thật, nhưng gã có cũng có định ăn thịt bà đâu?
Lưng Omen kêu cái rắc rõ to khi gã đứng dậy lấy cặp xuống từ khoang hành lý. Gã ngó qua một hồi để chắc chắn là không có cái gì bị thó đi, ở cái xã hội một mét vuông ba thằng ăn trộm này mà gã dám ngủ trên tàu kể ra cũng bất cẩn. Ví đây, hai chiếc điện thoại đây, giấy tờ, sau khi xác nhận tài sản cá nhân vẫn còn nguyên vẹn thì Omen khoác cặp lên vai, tiến về phía cửa tàu đang mở toang. Đang là buổi sáng, cái nắng gay gắt đầu hạ chiếu xuống đỉnh đầu gã, vừa oi vừa nóng, khiến Omen thoáng hối hận vì khoác cái áo gió dày cộp của mình. Gã nhanh chóng đặt tạm cặp xuống rồi cởi áo, buộc nó quanh hông. Nhà ga chẳng có mấy ai, hai cô nhân viên bán vé đang vừa tám chuyện vừa ăn trưa, hộp cơm để mở nằm cạnh máy in phiếu, cốc trà sữa đặt kế máy tính còn chưa tắt. Omen ngó quanh, những người khách khác của chuyến tàu đã vội vã rời đi rồi, chỉ còn lại mình gã, nên gã nhìn biển báo trên đầu rồi chọn đại một trong hai hướng, nhấc chân đi về phía cổng ra.
Như mọi ga tàu khác, ngoài cổng có rất nhiều chiếc xe taxi đã đợi sẵn, nhưng không như Omen mong đợi, những người tài xế khi nghe đến địa danh thị trấn Noctem, một là nhìn gã với ánh mắt khó hiểu và đáp rằng họ không biết chỗ đó, hoặc lắc đầu từ chối.
“Cái trấn ấy ở lưng chừng dãy núi đằng kia kìa, thấy không?” Người lái xe thứ tám gã hỏi, một người đàn ông tóc hoa râm với đôi cánh tay rắn chắc rám nắng mà bắp tay phải to gấp đôi của gã chỉ về phía dãy núi nhấp nhô phía Tây, đó là một dãy núi già, những đỉnh núi thấp, tròn, dáng mềm và sườn thoải, với lờ mờ chút xíu xiu tuyết màu trắng trên đỉnh. “Nó nhỏ và cũ kỹ đến mức các bản đồ hiện hành thậm chí còn chẳng buồn đánh dấu cho hẳn hoi. Đường không đến nỗi khó đi, nhưng dài, rất dài, đến cả tôi cũng phải mất cả tiếng chỉ để đến đó, và đường về thì tôi không kiếm được cuốc nào từ đám dân kẹt xỉ ở đó cả, tiền đi còn chẳng đủ tiền xăng dại gì mà nhận?”
“Nhưng cháu thật sự cần đến đó ạ.” Gã nài nỉ. “Không có cách nào hả bác?”
“Có thì có, nhưng cậu phải đợi một lúc nữa. Mà cậu cần đến đó làm gì,” Người đàn ông rút một điếu thuốc ra từ cái bao đã sắp rỗng tuếch rồi châm lửa, mùi hăng hăng của làn khói mỏng uốn éo bay lên ở phần đầu cháy đó khiến dạ dày Omen nhộn nhạo vì thèm thuốc. Gã vô thức liếm môi, như thể cố nếm lại cái vị đắng chát đã phai màu của thứ lá khô cuốn trong giấy mỏng gã vẫn hút những đêm khuya. “Cái nơi đó xúi quẩy lắm, tôi có quen một thằng nhóc, ngay khi nó đủ mười sáu tuổi là nó tếch khỏi cái chốn đấy liền, mấy lúc đi nhậu với tôi nó luôn bảo đó là quyết định đúng đắn nhất đời nó. Cái chốn ấy ăn mòn con người ta, vậy đấy.”
Tim Omen hẫng đi một nhịp. “Cái cậu ấy tên gì ạ? Cháu đang tìm một người có quê ở đó.”
“Cái gì nhỉ? Tước, ờ, Dạ Tước, Mục Dạ Tước, mẹ nó là người Hoa nên tên mới kỳ lạ vậy. Không phải hả?” Ông ta hỏi khi thấy khuôn mặt lộ vẻ thất vọng của gã. “Thằng nhỏ đi làm ăn xa lâu lắm rồi, cái thành phố nhỏ bé chật chội này còn chẳng đủ chứa dã tâm của nó nữa là cái trấn ấy. Giờ cái trấn ấy toàn người già là nhiều thôi, ai còn tỉnh táo đều chạy đi hết rồi.”
“Tại sao hả bác?”
Ông ta có vẻ hứng chí khi có người quan tâm đến chủ đề này, điếu thuốc lá đung đưa khi khuôn mặt dãi dầu sương gió ấy nhăn thành một nụ cười. “Ban đầu nó vốn cũng ít người sống rồi, ở sâu trong núi quá mà, lạc hậu, đường xá không thuận tiện, nhưng chỉ thế thôi thì đã tốt. Tầm mười ba năm trước nơi đó xảy ra một trận lũ lụt vì tuyết tan đầu xuân, trận đó vùi mất một nửa cái trấn luôn, chỉ trong duy nhất một đêm. Lần tới chắc là vùi hẳn nó đi, nên người ta chạy, dù đến tận giờ vẫn chưa có lại một trận lũ nào như năm đó nữa. Từ đó nó như bị ám ấy.”
“Chỗ đó có cái vực nào không ạ? Một cái khe hay tựa tựa thế cũng được.”
“Chịu, tôi có phải dân ở đấy đâu.” Ông nhún vai, đoạn chỉ về bến xe bus nằm chếch về bên trái cổng ra vào ga tàu. “Nhưng nếu cậu thật sự muốn đến đó, tôi gợi ý cậu đi chuyến bus này, cũng chẳng hại gì đâu, nhưng cuối bến của nó là Noctem, nên dân xung quanh đây, nếu mà còn nhớ nơi đó, mới không thích nó. Nó sẽ đi qua đây vào tầm mười giờ sáng và mười giờ tối, tay lái xe là người Noctem luôn, dù vậy thì cũng chưa từng có người khách nào từ đây mà lên xe đó cả, luôn là dân Noctem, và cái chuyến đó chẳng bao giờ thấy quá ba hay bốn người. Chẳng biết vì sao nó vẫn còn chạy. Cái xe trông như mớ đồng nát mới trốn khỏi trại đốt rác ấy. Cậu hỏi sao tôi biết ấy hả? Cậu cứ đợi khắc thấy ấy mà, dân của nơi đó có cái gì rất khác biệt, theo nghĩa tiêu cực ấy, âm u, gần như suy đồi, một cái vẻ mà cậu vừa nhìn đã thấy ác cảm mà không biết tại sao. Ai ở đó cũng thế cả, những người bỏ đi thì phải gột rửa rất lâu mới hết, như thể không khí của cái nơi ấy dính chặt vào lưng người ta vậy, thế nên tôi mới bảo cái đất ấy chẳng khác nào bị ám.”
Omen gật gù và đưa cho người đàn ông một tờ tiền mệnh giá cao nhất mà nhà nước phát hành. “Dạ cháu cảm ơn bác.”
Ngay khi thanh niên tóc trắng quay người định rời đi, ông ta gọi giật gã lại. “Từ từ đã, cái này coi như là trả lễ cậu. Tôi không biết cậu định kiếm ai, nhưng cái trấn Noctem ấy không chào đón những con mắt tọc mạch và những câu hỏi suồng sã, đặc biệt khi chúng đến từ người lạ. Nghe đồn thôi, nhưng theo chúng thì cũng ít nhất một tay doanh nhân hay nhân viên nhà nước nào đó đã đến đó và không quay trở lại khi cố thuyết phục dân ở đó về một bản quy hoạch nhà máy mới hay tựa tựa vậy, giờ một trong số đó được kể là đã phát điên và đến giờ vẫn trong bệnh viện tâm thần. Dân ở đó hẳn đã phải bày ra trò hù dọa gì ghê gớm lắm.”
Ông ta rướn người ra khỏi cửa sổ xe, giọng hạ xuống thành không lớn hơn một tiếng thì thầm. “Nếu tôi là cậu, tôi sẽ không qua đêm ở đó đâu. Tôi chưa từng đến đó và cũng không có ý định đến, dù là vào ban ngày, nhưng tôi nghĩ ít nhất thì dưới ánh nắng mặt trời cậu sẽ an toàn. Và đừng cố quá, đừng tọc mạch, đừng táy máy, đừng làm gì thiếu suy nghĩ, nhớ rằng có thể cái người cậu đang kiếm đã rời bỏ nơi đó rất lâu rồi.”
Khi Omen tạm biệt người đàn ông, mới chỉ là tám rưỡi sáng, nên gã quyết định sẽ đi lấp đầy cái bụng của mình trước. Gã rẽ vào một cửa hàng, gọi một cái burger và một ly nước cỡ bự. Omen vẫn chưa từ bỏ, gã vắt óc nhớ lại cách ứng xử hòa nhã mà tên thanh niên tóc trắng đã vứt bỏ cả chục năm trước, cố gắng dò hỏi những người dân về địa danh bí ẩn nọ, nhưng những người trẻ, như cô thu ngân trong cửa hàng, còn chẳng biết nơi ấy là nơi nào, còn những người già, như ông lão bán báo bên vệ đường, thì lặp lại y hệt những lời tay lái xe đã nói. Đến lúc này thì Omen tin lời ông ta thật. Gã quyết định sẽ đợi đến mười giờ, và nếu chiếc xe bus đó không xuất hiện, có lẽ gã sẽ dốc đến đồng xu cuối cùng để thuyết phục người đàn ông đồng ý chở mình đến đó.
Omen quay về đứng ở điểm chờ xe bus vào lúc mười giờ kém. Đã gần trưa, cái nắng nhợt đã nhường chỗ cho ánh nắng gay gắt đặc trưng của một sáng mùa hạ, chiếu xuống đỉnh đầu gã, dù có mái che thì vẫn không hết nực. Một ông lão nằm dài trên ghế đợi, ngáy khò khò bên dưới chiếc mũ tai bèo để trên mặt lệch hẳn qua một bên, bộ quần áo rộng thùng thình và bạc phếch phủ lên cơ thể gầy gò.
“Cái bến bus này qua sử dụng lâu rồi con ạ, chẳng có xe nào dừng ở đây đâu.” Omen giật thót khi đột nhiên nghe thấy tiếng người bên cạnh, gã quay lại, thấy ông lão đã dậy từ bao giờ, đang nằm nghiêng trên ghế, một tay chống đầu. “Giờ chỗ này chỉ còn công dụng thành chỗ nghỉ trưa của mấy lão già như ông thôi.”
“Dạ, có người bảo con đợi chuyến đến Noctem ở đây ạ.”
“À, ờ, cái chuyến ấy thì còn chạy thật. Nhưng con đến chỗ đấy làm gì, chẳng có gì ở đó ngoài mục rỗng và suy đồi cả, cả cái thành phố này người ta đều giả vờ như nó không tồn tại, rồi lâu dần người ta quên mất là nó tồn tại thật.”
“Con tìm một người.” Omen chìa tấm ảnh chụp Mganga cho ông lão. “Ông có từng thấy cậu ấy không ạ, chắc là cậu ấy cũng từng tìm đường đến Noctem.”
“Ông chịu thôi, đầu óc ông rệu rã quá rồi.” Ông lắc đầu, những nếp nhăn xô lại với nhau như vỏ cây mục. “Đời lắm chỗ để đi, bọn bây đến cái chỗ nuôi ma nuôi quỷ ấy làm gì không biết…”
Lời vừa dứt, Omen nhìn thấy một chiếc xe nhỏ, cũ nát như thể đã phải trải qua ngày tận thế lạch cạch chạy dọc con phố trước khi dừng lại ở lề đường trước mặt gã với một tiếng thình lớn. Gã ngay lập tức có phỏng đoán đây hẳn là chiếc xe mình đang đợi, và được xác nhận bằng hàng chữ gần như không thể đọc được trên kính chắn gió, cũng bạc phếch và chằng chịt vết xước như mọi nơi khác trên chiếc xe đã không còn nhận ra được màu sơn nguyên bản: Kazell - Mildar - Noctem.
Chỉ có hai hành khách, một thanh niên và một người trạc tuổi ngũ tuần, đều mang bộ mặt lầm lì như đeo đá, cùng một vẻ khắc khổ và gầy gò như nhau, một sự đồng điệu kỳ lạ dù từ mặt mũi tới dáng người đều chẳng có chút gì liên quan. Hai người họ lóng ngóng xuống xe, những đôi chân lẻo khẻo đến kỳ quặc chậm rãi dậm từng bước về phía đại lộ Carano, với một vẻ lầm lì, gần như lấm lét. Ông lão nghỉ trưa đã đi từ lúc nào không biết, gã thoáng thấy chiếc mũ tai bèo màu lá khuất vào một hàng nước đầy những cụ ông ngồi đánh cờ và phì phèo điếu thuốc bên môi. Omen sợ chiếc xe đi mất, vội vàng cầm túi trèo lên xe, đưa cho tài xế ít tiền lẻ gã vét trong túi áo - vì trên xe chẳng còn người thứ ba, kẻ nọ quay lại, và gã thấy vẻ bất ngờ tăm tối ánh lên trong đôi mắt có màu xanh lá vẩn đục, như thể nhìn thấy một người không phải dân bản địa trèo lên xe là chuyện hiếm có lắm vậy. Mà có lẽ là thế thật. Tay tài xế là một người nhỏ con, nhưng tay chân dài ngoằng theo một kiểu rất kỳ lạ, gần như phi khoa học, khiến gã nhớ đến những con khỉ trong sở thú, da sẫm màu, và khuôn mặt, tuy khác xa so với hai người kia, dài thượt như một trái xoài và nhăn nheo như bị ngấm nước, Omen vẫn cảm thấy một cơn ác cảm quét qua người y hệt như lúc gã nhìn thấy hai hành khách, không thể kiềm chế hay lý giải. Gã cuối cùng cũng hiểu được lời người tài xế taxi, rằng những người dân Noctem luôn mang đến cho gã cảm giác gã căm ghét họ ngay từ cái nhìn đầu tiên, dù gã không biết tại sao.
Omen cảm thấy nuối tiếc khi hiểu rằng sẽ không còn hành khách nào đi cùng, gã không muốn ở một mình với tay tài xế kỳ quặc nọ, dù thêm người có nghĩa là làn sóng ác cảm âm u sẽ càng mạnh hơn. Bên trong xe cũng nát tươm y như bên ngoài, gã chọn đại một cái ghế để ngồi mà cứ lo ngay ngáy nó sẽ sụm dưới sức nặng của gã, gã cũng mét chín và tám mươi cân lận, chứ đâu nhỏ nhắn gì. Trong xe ngoài những hàng ghế bong tróc hết sơn và kêu ken két một cách đáng quan ngại mỗi khi đi qua một khúc quanh thì không còn gì khác, giống như một chiếc xe bus thông thường. Chỗ gã ngồi ngay sát cửa sổ, một phần là vì gã muốn nhìn cảnh vật bên ngoài, dù những ô cửa kính đầy bụi và những vết xước như thể bị một con thú lớn cào vào.
Kazell là một thành phố nhỏ ít dân, không có quá nhiều người qua lại trên đường, nhưng Omen vẫn nhận thấy sự phân hóa rất rõ rệt: những người dân trên vỉa hè hoặc tránh nhìn vào chiếc xe với một vẻ chán ghét ra mặt, hoặc coi như nó không tồn tại, có lẽ người tài xế xe taxi không nói quá về mức độ ác cảm của người dân nơi đây dành cho Noctem và tất cả những thứ liên quan tới nó.
Chiếc xe lạch cạch chạy qua những tòa nhà bằng gạch cũ của khu phố Gavuna, đường đẹp, hẳn là mới được đổ nhựa đường lại gần đây khi màu đen vẫn còn rất rõ, nhưng tiếng động cơ cứ giật đùng đùng mỗi ba mươi giây một lần, minh chứng cho sức sống ngoan cường tới kỳ lạ của bản thân nó. Rồi xe chạy vào khu ngoại ô, những tòa nhà theo lối Rococo xa hoa có sân vườn lớn nằm cách nhau xa đến nỗi đứng ở bên này không nhìn rõ được người ở bên kia, được ngăn cách bằng những bãi đất hoang chẳng có gì ngoài cây dại còi cọc là những thứ duy nhất tồn tại bên hai bên đường lớn. Cuối cùng, Kazell cũng dần khuất tầm mắt của Omen đằng sau những tán cây không rụng lá, con đường mòn họ chạy trên vắt ngang khu rừng đương dịp xanh tốt nhất trong năm như một vết thương chưa khép miệng. Hôm đó là một ngày nắng ấm, tiết trời rất đẹp và sáng sủa, nhưng trong khu rừng vẫn cứ tối tăm theo một cách rất kỳ quặc, gần như hung hiểm, chỉ có những tia nắng ở đường mòn là xuyên qua được vô vàn bàn tay xòe ra của những chiếc lá cây xúm xít trên cành, còn càng vào sâu trong rừng, khung cảnh càng lờ nhờ, Omen chỉ thấy cây, cây và cây, ken kín đặc như những que diêm được xếp trong hộp.
Dần dần con đường hẹp dốc hơn, được minh chứng bằng tiết tấu khọt khẹt của chiếc bus càng ngày càng dày đặc, như thể nó sẽ sụm xuống bất kỳ lúc nào. Omen thò đầu ra ngoài qua một ô cửa sổ mất kính, nhìn về phía dãy núi họ đang trèo lên. Chiếc bus chậm rãi bò về phía đỉnh núi cao nhất, và hẳn là trẻ nhất, khi gã ngước cổ lên nhìn, một cảm giác hùng vĩ và khổng lồ kỳ lạ tràn ngập trái tim gã, như thể dù có cố đến đâu, Omen cũng không thể nhìn được đỉnh của nó, như thể ngọn núi cao đến tận cùng, dù gã chắc chắn rằng đó chỉ là một ngọn núi bình thường, thậm chí hơi thấp nữa. Một cảm giác một vài người khách du lịch Nhật Bản đã chia sẻ khi họ nhìn núi Phú Sĩ lần đầu tiên. Phía trước gã, tên tài xế câm lặng chúi người về phía trước như thể cố san sẻ gánh nặng với chiếc xe, mồ hôi lấm tấm trên cái đầu hói tròn xoe, ngay cả sau gáy hắn cũng chỉ lơ thơ một dải tóc lẫn lộn xám và đen mỏng dính. Qua gương chiếu hậu, Omen thấy hắn mím môi rất chặt, khuôn mặt dài thượt càng được đà nhăn nhúm lại như đầu ngón tay bị ngấm nước.
Càng về trưa càng nóng, dù ngay giữa rừng cây cảm giác ngột ngạt vẫn không vơi bớt đi, và bên trong một chiếc xe bus không điều hòa chẳng hề khiến mọi việc tốt lên. Omen nghĩ chiếc xe phải lết đến hai tiếng, hai tiếng rưỡi trước khi con đường thoải dần, và gã thấy hiện ra trước mắt mình thung lũng rộng lớn phía bên kia, nằm gọn trong vòng tay của những đỉnh núi quây quần, báo hiệu cho Omen biết gã đã đến Noctem u ám và biệt lập trong lời đồn.
Noctem.
Omen lẩm bẩm, ngay cả đến thị trấn trải dài trước mắt gã cũng giống như một tiếng thở dài. Đó làm một thị trấn rộng với nhà cửa san sát, thấp lè tè, nhưng thiếu vắng bóng người sinh sống đến kỳ lạ, ít nhất là ít hơn gã đã nghĩ. Tầm mắt gã không bắt được bất kỳ chuyển động nào của những sinh vật sống bên dưới cái triền bất tận của những mái nhà hai mảng lụp xụp, con đường mòn bọn họ đang chạy trên cũng gần như biến mất dưới lớp cỏ dại và đá cuội, khiến Omen nhớ ngay đến lời của người tài xế taxi, nhận ra rằng cách dùng từ của ông ta - mục rỗng và suy đồi - hóa ra lại đúng đến không ngờ. Phóng mắt từ bên này qua bên kia cũng không thấy tình trạng chỗ nào đặc biệt khá khẩm, một nhà thờ bằng đá trắng với đỉnh nhọn nằm giữa thị trấn như một dấu mốc xẻ đối Noctem ra làm hai.
Chiếc xe bus chạy đến cổng thị trấn rồi đột ngột dừng lại với một tiếng lịch kịch lớn, Omen cũng bị quán tính làm chúi cả về phía trước. Tay tài xế ấn nút mở cửa xe sau khi khạc nhổ một cái rõ to vào cái chai để cạnh tay lái, rồi đứng dậy khỏi ghế, cái dáng đi khòng khòng của gã có gì đó tương tự hai người hành khách đã xuống xe ở Kazell, đôi chân lẻo khẻo dậm thình thình trên sàn xe khi kẻ kỳ lạ đó trèo xuống, rồi cứ thế đi thẳng, hoàn toàn quên mất còn một người nữa còn ngồi trên xe.
Omen hít sâu một hơi trước khi xốc lại cái cặp trên vai, hơi loạng choạng lúc đứng lên vì đôi chân đã tê cứng khi ngồi một chỗ quá lâu. Đôi giày thể thao với đế dày cũng không nhẹ nhàng hơn tên lái xe ban nãy được bao nhiêu, cả chiếc xe bus cũ như thể nhún nhảy theo từng nhịp bước của gã khi gã lần mò bước xuống đường. Đến cả nắng ở Noctem cũng nhợt nhạt hơn trong thành phố, hai tay gã nổi hết cả da gà da vịt khi bị những ngọn gió mạnh thổi thông thốc vào người. Omen nheo mắt nhìn con đường chính của thị trấn trải dài như một vết rạch chưa khép miệng dẫn sâu vào những dãy nhà san sát đã ám đen, trong một khoảnh khắc thoáng qua, gã đã tự hỏi nửa năm trước, Mganga đã phải ôm suy nghĩ tìm kiếm thứ gì đó mãnh liệt cỡ nào, mới đủ can đảm bước vào cái miệng há ngoác của con quái vật tí hon này. Y rất nhỏ bé, quá nhỏ bé, đến nỗi chỉ cần nó khép miệng lại, là y sẽ bị nuốt chửng.
“Tao thích chỗ này lắm.”
Omen quay lại, thấy con quái vật của mình ngồi vắt vẻo trên một cành cây, cái bóng đen nhờ nhờ đó trôi nổi trong không khí như thể một làn khói, ngay giây sau sẽ tan đi.
“Mày còn đợi gì nữa?” Nhưng nó không biến đi, gã biết vậy, cho tới khi nào nó hài lòng.
Gã phải đi thôi.
Bình luận
Chưa có bình luận