Chương 11: Canh tàn người hâm hấp say, Dở kia có ngó, ngó rồi quay đi?



Thiên hạ ơi ra mà coi, phú Tộp ra mà hay! Con gái cửa quyền, vốn học đủ điều lễ tiết, đi đứng khép nép, nói năng thuận hòa. Ấy thế mà đêm nay thốt ra những lời trái tai, bảo một kẻ khùng điên rách rưới tắm rửa hộ. Lạ chưa! Việc ấy nào phải phận mình, kẻ hèn hầu nó được đồng cắc, chứ cô có được cái chi đâu. Trời đất ơi, nghe mà thất kinh. Thật tình, chẳng biết sao cho phải.

Cái Huê buông miệng đôi câu, rồi cười nhạt, nhắm mắt mà nằm. Nhài Thanh còn chưa nguôi sửng sốt, miệng há ra chẳng khép được, mắt tròn ngó mãi, trong lòng rối ren chẳng yên. Đêm về khuya, cô trở mình không sao ngủ được.

Hai tay Thanh vòng ra sau gáy, lấy làm gối, thở dài khe khẽ. Ngọn dây đốt nơi góc lều bị gió tắt từ bao giờ, song nhờ ánh trăng ngà rải xuống, cô vẫn thấy rõ dung nhan Huê khi đã thiếp đi. Nó khóc nhiều, thân thể hẳn đã kiệt, nên vừa chợp mắt đã chìm sâu, hơi thở đều đặn, không động một chân tay. Gương mặt ướt mi, nay trông lại yên tĩnh lạ thường. Thanh đưa mắt ngắm, lòng chợt dậy một thứ bâng khuâng. Lại là nó. Cô nhận ra hương thơm tỏa ra từ thân Huê, chẳng nồng nực, chẳng hắc gắt, mà thoảng nhẹ, dìu dịu, ngai ngái. Hóa ra là mùi phong lan, kín đáo mà thấm lâu, càng ngửi càng thấy dễ chịu.

Chẳng rõ bởi duyên cớ chi, bụng dạ nôn nao hay là vì lòng hiếu kì muôn phần, khát khao muốn ngắm thật kỹ gương diện người được cả làng xung tụng là đẹp nhất, mà cái thân Thanh, vốn nằm ngoài rìa giường tre, bấy giờ cứ cựa quậy, từng li từng tí mà nhích lại. Ban đầu chẳng để tâm, song càng lúc càng gần, cho đến khi Thanh chợt nhận biết, ngoảnh nhìn, thì ra đã sát ngay bên Thị Huê, chỉ còn cách chừng hai gang tay nhỏ hẹp.

“Con này, nó đẹp thật đó…” Ba chữ ngắn ngủi rời khỏi khoé môi Thanh dở. Thanh nén hơi, e ngại tiếng thở của mình làm lay động người đang an giấc kia. Đôi mắt cô cứ rón rén trượt qua, quẩn quanh mãi trên gương mặt nàng. Ôi chao! Nàng là tiên nữ. Tiên nữ mù. 

"Mày liệu rằng có phải là hồ ly giả dạng, đến để câu hồn cướp vía tao không?"

Thị Huê nằm ngủ mà chẳng bày ra chút thói thường tình, bóng dáng thô vụng nào. Không dãi nhớp, chẳng tiếng ngáy vang. Mặt mày nàng thanh tân, đôi mi khép xuống dài và dày, càng làm tôn sắc thanh tú. Nhìn nghiêng, sống mũi cao thẳng, chẳng có tì vết. Mái tóc buông loà xoà, ấy thế mà trông không rối. Cái thân thì nằm ngay ngắn, đôi tay chắp yên, đặt gọn nơi bụng. Thanh trông thấy, thoáng chồm người dậy, ngó từ đầu đến cuối. Chỉ đến khi thấy ngực nàng nhấp nhô, hô hấp thong dong, phập phồng hơi thở...cô mới tin rằng nàng còn sống. Chứ ngủ thế này, khi nãy, cô còn tưởng nàng chết rồi. Ngủ chi mà sợ thế.

Nhài Thanh lại ngả xuống, lần này nằm nghiêng, chống cánh tay nâng đầu mà dòm ngắm mãi. Trong trí bây giờ cứ vẩn vơ vài lời kháo nhau. Bao năm qua, đi hết chợ trên chợ dưới, qua làng này xóm nọ, Thanh từng nghe bao miệng xưng tụng về cái chữ "đẹp." Có kẻ bảo đẹp ngọc đẹp ngà, tìm tới gặp tận mặt thì hoá ra là than là tro, nức lời mà thực chất thì thường tình thôi. Lại có người ca tụng giọng ai đó ngọt lành, song nghe ra thì nặng nề chua chát. Người đời vốn ưa thổi phổng, hiếm kẻ thật sự có dung nhan tương xứng cùng lời đồn. Đẹp, xấu, xét cho cùng, chỉ là tùy mắt mỗi người, tựa như trăm hoa đua nở, chẳng bông nào giống bông nào. Người cho rằng rạng rỡ, kẻ khác lại chê thường tình. Cái đẹp muôn hình muôn dạng, vốn không thể đo bằng một khuôn một thước, nên mới thành ra mỗi người một lời, chẳng ai giống ai. Lòng người lại vốn không một mối, cái nhìn vốn chẳng một chiều. 

Ấy vậy mà, giữa ngàn vạn tiếng bàn cãi, vẫn có một nhan sắc vượt khỏi mọi đo lường. Đang nghĩ ngợi, Thanh chợt mở to mắt, thần hồn xao động, vội xoay mặt đi hướng khác vì thấy người bên hơi động. Ừ, Thị Huê chính là thế. Ngoại lệ chính là nàng. Chỉ cần mở mắt ngắm nàng, thì bao nhiêu chuẩn mực từ xưa tới nay hóa vô nghĩa. Người ta sẽ chẳng còn hỏi đẹp hay không đẹp, mà chỉ còn biết gật đầu, chỉ còn biết ngợi ca. Tóc kia óng mượt, môi kia thắm tươi, vóc kia uyển chuyển. Từng phần đều đáng khen, tất thảy mà gộp lại thành toàn vẹn. 

Đợi cho qua một chốc, chẳng thấy gì khác lạ, Thanh mới bẽn lẽn quay nhìn lại. Lúc này đầu Huê nghiêng về phía nàng, hơi thở phả ra, lành lạnh mà lại ấm, quấn quýt ngay bên má Thanh. Khi nãy buồn ngủ lắm, mắt ríu cả lại, mà bây giờ thì mở trừng trừng, không chớp nổi. Cô đưa lưỡi liếm môi, ngượng ngập mà chẳng rời mắt.
  
Thanh nhìn mà trong bụng thấp thỏm dùm. Nếu kẻ chợ người quê có dịp nhìn ngắm mặt mũi Bùi Thị Huê, thì mọi tiêu chuẩn về đẹp xấu chắc chắn đều phải bỏ cả, không còn một ai dám chê bai, mà chỉ một mực khen ngợi. Khen tóc nàng đen mượt, khen mắt nàng sáng đen, khen miệng nàng tươi cười, khen từng chút, từng chút, chẳng sót điều nào. Nhưng mà, nàng đẹp đến vậy, dịu đến thế, ra tới bên ngoài thì sẽ bị nhìn soi dữ lắm.

Ai sẽ nhìn? Đàn bà trước tiên. Họ nhìn để ganh, để ghen, ruột gan sôi sục không cam lòng, bởi cùng một phận nữ nhi, sao vai họ thô, sao mặt họ rỗ, sao tiếng nói họ chợ búa, mà Huê lại mảnh mai, nhỏ nhắn, đủ đầy vẻ chuẩn mực của con gái. Còn đàn ông cũng nhìn chứ, nhưng ánh mắt khác. Đàn bà nhìn để chê bai, ganh ghét. Đàn ông nhìn bởi thèm thuồng, ham muốn. Nhưng cái thèm khát kia chỉ thoáng chốc, còn cái dòm dõi của đàn bà mới dai dẳng, mới độc hại. Huê này, mà bị ném vào tay chúng nó, ắt sẽ thành nguồn cớ cho bao chuyện, hoạ phúc khó lường, chẳng ai liệu trước. 

Thanh ngổn ngang, chun mũi. Tự dưng cô thấy phận người cứ xấu xấu bẩn bẩn một chút cũng chẳng sao. Cái đẹp vốn là ân phúc, mà cũng là gánh nặng. Người sở hửu nó được trời cho, nhưng cũng bởi nó mà mang thêm nỗi hoạn nạn. Ở đời, điều hiếm hoi thường không trọn vẹn, cái quý bao giờ cũng kèm theo hiểm hoạ. Huê đẹp đến độ không ai dám cãi, thì chính Huê cũng là kẻ gánh lấy nhiều nhọc nhằn nhất. Có điều, phàm nhân gian, ai hiểu hết lẽ ấy?

Nhài Thanh hít một hơi dài, thở ra thật khe khẽ. Nói tới lại sực nhớ, cái Huê đã kể sơ sơ chuyện cha, chuyện má, song Thanh vẫn mù mờ, vẫn chẳng hiểu rành rẽ. Nó bị lão Tộp đuổi khỏi nhà, rốt cuộc vì cái tội chi? Lỗi lầm chi nặng nề đến mức phải đoạn tuyệt máu mủ? Nghĩ cũng lạ thay, vì tính ra, Huê vẫn là niềm tự hào của cha nó kia mà. Đành rằng phận gái, nhưng nào có kém ai. Từ lễ, nghĩa, đến tài nết đều tinh tường. Đem mặt hoa da phấn kia mà đặt, thì khắp làng đã có tiếng, người người đều công nhận. Thế mà vẫn bị ném ra ngoài cửa, chẳng chút dung tình. Lỗi lớn hay lỗi nhỏ, chưa bàn, nhưng chỉ cần nhìn gương mặt ấy, cái trí tuệ ấy, đủ biết nó vẫn còn bao nhiêu lợi lộc đem lại cho một kẻ háo danh ham của như ông Tộp. Vậy mà lão ta vẫn nhẫn tâm đuổi đi, lạ lùng làm sao.

Trong đầu lộn xộn trăm mối, bàn tay Thanh bỗng dời dời, chẳng hiểu động lực nào, cứ thế chạm vào gò má Huê. Đôi mắt Thanh mở lớn, kinh ngạc. Má nàng...ừ, mềm quá. Lại thêm mát, lại thêm mịn, cái má này...chắc mẩm chưa từng dãi nắng dầm mưa, chưa từng vướng bụi đời. Không kìm được, Thanh lại chọt thêm, lần này vào má bên phải. Lúc đầu còn run rẩy, sau lại thấy buồn cười, cứ dí dí, chọc chọc, rồi khẽ nhấn đầu ngón tay. Trong bụng thì là con dở, nhưng cái gan tối nay bỗng lớn, mạnh tay làm điều mà ban ngày chưa dám nghĩ. Lạ lùng thật, cái má Huê, hễ chạm vào là cứ êm mềm, thừa da thịt, vừa lọt tay đã muốn dí thêm lần nữa.

"Mẹ…" Đột ngột, một tiếng nói nhỏ nhỏ thốt ra từ nơi Huê nằm. 

"Cái gì? Con này láo nháo à? Mày chửi tao hử?" Nhài Thanh chồm hẳn dậy, hai tay túm lấy cổ áo nó, cọc cằn nói: "Tiểu thư gì mà kì cục thế này?"

"Mẹ...mẹ đừng bỏ con…" Tiếng thì thào lần nữa vang lên trong đêm tối. 

Nhài Thanh nghe mà vỡ lẽ. Thì ra con nhỏ nó nói mớ, nó đang chìm trong giấc ngủ, mê man mà gọi. Thanh thấy mình hoảng hốt vô duyên, liền bật cười hè hè, buông tay ra, rồi còn đưa tay vuốt lại vạt áo cho thẳng thớm. Dòm kỹ, cũng là nhờ ánh trăng treo cao trên lều, vằng vặc chiếu xuống mới thấy rõ dáng điệu. Nàng vẫn ngủ yên, nhưng miệng thì mấp máy, cứ gọi mẹ gọi mẹ, gọi đến não lòng. À, té ra nó nhớ mẹ nó, thương nhớ khôn cùng, nên mới thốt ra trong mộng.

Nhài Thanh nghiêng nghiêng mặt, cúi xuống sát hơn, dõi theo từng hơi thở. Thị Huê trở mình, đầu hơi nghiêng, đôi môi run rẩy thốt thêm: "Mẹ ơi…"

Ngay khoảnh khắc ấy, ở nơi khoé mi, một dòng nước dần rịn ra. Giọt đầu tiên rơi xuống, thấm ướt gò má trắng ngần, rồi nối tiếp đó là từng hạt lệ nhỏ lặng lẽ chảy dài. Nàng khóc, vậy mà trăng cũng thiên vị. Ánh trăng soi vào, khiến lệ nàng long lanh tợ hạt sương rơi trên cỏ non. 

"Ớ. Con kia!" Thanh lắp bắp đưa tay chạm vào má nàng, vụng về gạt đi mấy giọt nước mắt: "Mày làm sao thế…?"

Bất chợt, đôi mắt Nhài Thanh tròn xoe, thoáng ngẩn ra rồi giật mình đánh thót: "Ủa? Sao má mày nóng vậy trời…"

Nói đoạn, cô liền rướn người lên, cánh tay nhỏ khẽ khàng chạm một lần nữa. Nóng thật. Trong bụng nhoi nhói, Thanh luống cuống trở tay, một bên đặt vào trán Huê, một bên lại đặt ngay trán mình mà so. Mặt đối mặt, hơi thở phả vào nhau. Thanh ngồi khựng lại. So tới so lui, mặt mày càng nhăn nhó, càng thấy lạ:

"Dở rồi, trán mày nóng hừng hực, còn trán tao thì lạnh lắm cơ mà…"

Thanh lắc đầu, môi mấp máy mà lòng rối rắm. Ngó xuống, cái Huê vẫn chẳng tỉnh, đôi môi cứ mấp máy, miệng lẩm bẩm lời chi mơ hồ, mơ màng, chẳng đâu vào đâu. Chỉ có hai hàng nước mắt ràn rụa, chảy ra hai bên thái dương. Cảnh ấy khiến ngực Thanh bồn chồn. Thanh thụt thò lùi ra sau, cuối cùng rời khỏi mép giường, thõng tay bước xuống đất. Tay phải lại vươn lên gãi gãi đầu, trưng ra cái dáng lơ ngơ, lóng ngóng. 

"Nó làm sao? Bị gì mà như thế? Giờ mà nó lăn quay ra chết, mình ở ngay bên...thôi rồi, ông Tộp có mà đánh cho què giò, ép đi bốc phân chó, tội chi oan ức lắm. Chết chết.."

Thanh càng nghĩ càng hãi, vội xua xua tay lia lịa, đẩy tất thảy trách nhiệm ra khỏi người. Cô cúi xuống, lượm vội cái nón rách vứt lăn lóc dưới đất. Phẩy một cái, Thanh lẩm nhẩm:   "Không được. Thôi thôi, chuyện này không dính dáng, không can hệ gì đến Thanh tao đâu nhé."

Nói xong, Thanh cứ thế chùn bước, lùi dần dần. Mắt thì tránh, nhưng chân toan rời đi. Có điều, bước chân ngập ngừng lắm. Rồi bỗng quay phắt gót, Thanh rời đi. Ra tới cửa lều, gió đêm lùa vào mát lạnh. Ánh trăng đổ xuống, sáng vằng vặc, soi rõ cả mấy cây xoài, cây chuối. Cô ngước mắt nhìn trăng một thoáng, rồi chẳng biết sao lại quay đầu liếc về phía trong lều, nơi bóng Thị Huê nằm yên. Chân lùi, lại tiến. Bàn tay cầm nón siết chặt, song lại buông ra. Cứ lửng lửng lơ lơ, đến ngộ.

"Hừm." Nhài Thanh chống hông, quyết đoán nói: "Kệ đi, vướng vào chỉ tổ rách việc. Nó sao thì có trời đất định. Mình đâu phải kẻ tốt đẹp gì đâu.."

Thanh chớp mắt liên hồi, miệng mím chặt, cuối cùng phì cười. Bất thần, cô chạy vụt đi, chạy hẳn về phía đống rơm ban đầu đã nằm. 
Áo quần bay lất phất, guốc lẹp xẹp nghe vang. Đến nơi, Thanh ngã phịch xuống, lưng dựa vào đống rơm. Tay khua khoắng một hồi mới vớ được cọng rơm khô, chẳng kịp suy nghĩ liền đưa lên nhét vào miệng, nhai nhồm nhoàm cho có cái bận rộn. Rơm cứng ngắc, nhai hoài nhai mãi cũng chẳng nuốt được, mà con dở kỳ quặc thay, lại cứ nhai, nhai rồi im lặng nằm đó. Mắt mơ màng, ấy mà tai thính lắm. Côn trùng rả rích, vào tai cô rõ mồn một. Thanh híp mắt, bấy giờ, cái đầu bất ngờ xoay lại, mắt hướng về phía túp lều. Túp lều đã bị bụi duối che gần hết, nên chỉ thấy lờ mờ cái mái rách.

Tổ cha nó chứ! Sao cứ nghĩ đến nó hoài. Nhài Thanh vội quay phắt người, nằm nghiêng, mặt hướng về phía bờ rào, còn đít thì hướng về phía lều. Thanh cắn thêm sợi sơm: "Cái lão Tộp kia giận cũng dai, không biết đường đến đón nó về đi. Cha với chả con, cái nhà này, ngộ!" 

Nhắm mắt lại, cố dỗ cho mình rơi vào giấc ngủ. Nhưng chẳng yên được. Chưa được bao lâu, Nhài Thanh hừ hừ trong cổ, trằn trọc. Bất chợt bật dậy, ngồi thẳng, hai tay đưa lên gãi gãi đầu rối tung. Đầu cô có chí sao, ngứa thế! Bụng cô có giun chăng, quằn quại kinh. 

"Hừm, hừm…" Nhài Thanh thở ra một hơi dài. Cô quờ tay, cầm lấy cái nón, cột dải lại cho chặt, rồi quàng ra sau gáy. Đêm nay thế là thôi, chẳng còn mong chợp mắt. Nằm thêm cũng bằng thừa, làm sao nằm khi mà trong dạ cứ khó chịu vì cái con tiểu thư kia chứ. Thanh đứng dậy, vỗ nhẹ sau lưng. Đi mấy bước, cô khom người luồn qua dăm bụi cây, rồi cứ thế cuốc bộ đến cái lối ra vào vườn chứ không bật rào như lúc mới tới nữa. 

Ra tới con đường làng quanh co, Nhài Thanh liền đi về phía trước. Mà, không hẳn là đi. Cô đang chạy cơ, chạy hối hả lắm. Giữa đêm, một bóng người cứ thấp thoáng qua ngõ trái, vòng ngõ phải, lượn lờ qua lại không ngừng. Đến nỗi, cô kéo cả trăng theo. Cô dừng, trăng cũng dừng. Trước mặt, một căn nhà lá thấp nằm nép bên bụi chuối hiện lên. 

"Giờ này, chắc dì Sâm cũng dậy rồi, hoặc chớ cũng còn thức.."

Thật y như đoán. Nhài Thanh kiễng chân, ngó qua bờ rào ngang tầm vai. Bên trong, nơi xa xa, ánh lửa lập loè. Dì Sâm ngồi chổm hổm bên lò, dáng người lực điền đang cắm cúi làm gì đó. Khói quyện quanh, cay xè, mà người đàn bà vẫn cặm cụi. À, hoá ra bàn tay thoăn thoắt đang cào tro, ấy là lật mấy củ khoai đang nướng. Bất chợt, gió tạt khói sang, lửa loé lên rồi lụi xuống, soi thấy rõ rừng nét trên khuôn mặt rám nắng của người đàn bà quen lam lũ. 

Nhài Thanh nhìn trời. Trên trời phía đông, màu đen đã nhạt dần, chắc đã vào canh bốn rồi. Ở làng này, người ta dậy sớm lắm, nhất là mấy mụ đàn bà bần hèn ấy. Dậy sớm vì trong người còn mang nỗi lo. Lo bữa ăn, lo ngày tới, lo chuyện người, chuyện đời chẳng dừng bao giờ. Thanh cô hiểu điều đó, tuy còn trẻ mà lòng đã có những nỗi nghĩ già dặn. Thở hắt một hơi, Nhài Thanh men đến đoạn hàng rào đổ, chỗ có mấy cành tre gãy nằm chéo, mà phi người, nhẹ hẫng nhảy qua. Bước đi chục bước, rốt cuộc cũng đến cái chòi bếp tạm bợ nằm sát căn nhà lá. 

Dì Sâm vẫn không hay biết, miệng khe khẽ ngâm mấy câu gì đó. Củ khoai trong tay dì đen xạm, tro dính thành lớp, dì lại phủi, đặt sang một bên, rồi thêm củi vào lò. Nhài Thanh đứng lặng một chốc, mắt nhìn, mà trong lòng lại dậy lên nhiều điều. Cái yên ả của buổi sớm, cái cần mẫn của người đàn bà tảo tần, hay gì đi nữa, chỉ cần nhìn thấy dân đen vất vả...đều khiến lòng dở ánh lên tia bứt rứt khó chịu. Tại sao phận sự lại như vậy? Không ai biết cả. Chỉ biết rằng, người ta sống giữa cõi này, lo toan chẳng dứt, thân phận mỗi người chỉ là hạt bụi nhỏ cỏn con. Có người chịu được, có người không. Còn dì Sâm kia, hết đêm lại sáng, sao cứ thấy ngồi canh bếp, như thể người sanh gì ra là cái lò này vậy.

Thanh bước lại gần, nép vào bên mép vách, nhìn quanh gian bếp nhỏ. Nồi niêu treo lủng lẳng, củi khô xếp thành đống. Hơi khói len vào tóc, ngai ngái, nồng nồng, khiến mắt Thanh cay xè. Tuy vậy, cái cay này Thanh chịu tốt, bởi làm sao "cay" bằng đời bạc mà cô đã chịu.

"Dì nấu cho chồng ăn hở dì?" Thanh mở lời. 

Nghe tiếng vậy, mà Dì Sâm chẳng đáp. Chỉ thấy bóng dì nghiêng nghiêng, nhưng bàn tay thì vẫn cắm củi vào bếp. Có vẻ dì đã nhận ra chủ nhân của cái giọng này. Một lát, dì mới ngẩng lên, nheo mắt nhìn cái dáng nhỏ thó đang đứng khuất bên cây cột gỗ đen ám khói.

"Ờ, con ranh. Không nấu cho chồng thì nấu cho ai?"

Thanh Dở ngẩng nhìn khuôn mặt ấy một lát, nở nụ cười hề hề, răng trắng đều tăm tắp, rồi bước tới bên bếp lửa, chẳng chút để ý tro bếp mà ngồi hẳn xuống.

"Nay con dở không ôm mộng mà ngủ sao?" Dì Sâm hỏi một câu cho có. Chứ người đứng đây rồi, mắt mở trừng trừng là thế, lẽ nào còn có con Thanh điên khác? Thôi, một con ăn xin với mấy trò vặt đã khiến cái làng này chán ngán rồi.

Nhài Thanh xua tay, rướn người nhìn vào cái nồi đất trên bếp củi. Dì Sâm khẽ cười, lấy thanh rơm buộc chặt mở vung. Mặc kệ khói bốc, Thanh vẫn ngó vào nhìn.

"Canh rau tập tàng (1) đó, dở biết không?"

"Xem thường con thế. Con biết đấy." Nhài Thanh hất cằm trả lời. 

Dì Sâm cầm lấy que củi khô nhỏ nhỏ, vẽ vẽ mấy vòng tròn dưới đất, đoạn ném thẳng vào ngọn lửa đang cháy lớn: "Ăn ngon chứ. Mà mày đã ăn bao giờ chửa?"

"Ăn rầu. Ăn phát ngán, phát chán."

Nhài Thanh đưa tay sờ lên ót, cái ót gầy nhẵn, rám nắng vì sương gió. Dì Sâm hỏi dở có biết rau này không à, chớ sao mà lại không biết cho được, cái thứ rau này nuôi sống đầy người cơ. Cái tên cũng ngồ ngộ, nghe lạ tai biết bao. 

"Canh rau tập tành", ấy thế mà còn ngon chán. Chứ cái thứ nuôi sống dở ngày đó, cái món ăn đắng nghét, chát đến buốt cả đầu lưỡi, lại là lá đu đủ đấy thôi. Lá xanh lòm, mùi ngai ngái, nhai vào nghe tiếng sần sật, đắng đến tận ruột gan. Ông thầy bói dởm cưu mang cô, còn chẳng buồn nấu cho ăn lần nào. Thế là, dở tự ăn sống, ngắt lá, lúc thì rửa, lúc thì không, bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến. Ăn đến độ trụi hết lá hai cây đu đủ lận. Đói đó, đói đến độ chẳng phân biệt được thứ chi. Hồi loạn lạc, mùa mất trắng, nhà ai cũng đói, có rau ăn là tốt lắm rồi. Dở cũng vậy. Ban đầu còn biết kén chọn, sau thì thôi, cái gì nhai được là bỏ vô mồm hết. 

Nhớ mang máng lại, hồi ấy, dở ăn tạp lắm. Hết lá đu đủ sống, thì đến rau má, rau sam (2), cây lẻ bạn (3), dền gai (4), càng cua (5),...hễ thứ gì mọc được ven bờ ruộng, gốc rạ, cô đều vặt trụi. Nhưng đó là khi còn đỡ đói. Chớ đến độ đầu óc tối sầm, tay chân run run, thì cái thứ gì cũng thành của trời cho. Thanh còn ăn cỏ gà (6), đào củ nâu (7), củ ấu (8) mà gặm. Còn có một loại gọi là củ ấu tẩu (9). Củ này thì có độc cơ, thế mà Thanh không sợ, nhưng cũng chỉ dám ăn một chút vì quý cái mạng hèn. Mấy con nhái khô giãy đành đạch ngoài bờ mương, bắt luôn, quơ tay ném vô miệng nhai sống. Đắng lè lưỡi, tanh tưởi, mà vẫn nuốt cho được. Có bận, đói quá, Nhài Thanh còn ăn vỏ chuối phơi khô mò tìm trong đống rác, mang về ngâm nước cho mềm rồi nướng lên, cứ thế mà đánh chén. Có khi ăn cả bã mía người ta bỏ, nhằn nhằn ra tí ngọt. 

Cái đói đuổi riết sau lưng, không ăn thì chết, ăn vào thì sống được thêm ngày nào hay ngày nấy. Nhài Thanh nghĩ đơn giản vậy thôi, còn thở được là được.

"Mò sang đây là do đói hả?" Dì Sâm quay đầu nhìn chằm chằm, cất lời đánh tan cái suy nghĩ vẫn vơ trong đầu Thanh. Hỏi xong, dì không đợi đáp, quay lưng, bàn tay gầy chai sạn phủi nhẹ lớp tro trắng trên củ khoai vừa mới gắp ra khỏi than. Dì dúi củ khoai còn ấm hổi vào tay Nhài Thanh, nói nhỏ: "Đây, tao có củ khoai, mày cầm lấy mà lót dạ đi."

Nhài Thanh cúi nhìn củ khoai nướng. Củ khoai be bé, đầu hơi nứt, hở ra lớp thịt vàng ong, thơm lựng. Khoai mật rồi. Thứ này, người quê nghèo quý như vàng, bởi có được củ khoai mật là phải chọn được khóm đất tốt, lại phải trông từng ngọn gió sương. Đây hẳn là phần ăn của dì Sâm, phần ít ỏi lót bụng ba bữa. Vậy mà dì lại cho nó. Cái cảm giác ấy làm bụng Thanh nhoi nhói. Cô ngẩng đầu nhìn dì. Dì Sâm, người đàn bà có cái mắt sâu hoáy. Dì là người lạ nhất trong cái xóm Đông Tụ này. Khi cô lê thân về đây, đám người quanh xóm cứ hở miệng là "con dở", cười cợt, khinh khỉnh. Còn dì Sâm cũng gọi cô là con dở, nhưng cái tiếng "dở" từ miệng dì bật ra không có lẫn khinh, lẫn ghét, mà chỉ có chút thương, chút xót xa. Cùng một lời gọi, mà lòng người khác nhau một trời một vực. Dì không phải hạng người nói ngọt trước mặt, chua cay sau lưng. Dì cho cô củ khoai, chẳng đắn đo. Thứ tình trong bụng dì không phô trương, mà ấm áp. Vì thế, dở quý dì Sâm lắm. 

"Nay con dở biết ngại cơ đấy." Thấy Thanh ngồi đần ra, dì Sâm liền cười, giục nhẹ: "Cầm lấy đi chớ, ngồi trông làm chi.”

Thanh Dở lắc đầu, bĩu môi: " Dì cứ xem con là ma đói thế hử. Nay con ăn cá lóc nướng trui dì làm, no căng rốn rồi. Bụng còn khó chịu, không muốn ăn nữa."

"Lâu lắm mới được nhiều cá như thế đấy. Có lẽ là trời thương nên kiếm được chút chút. Chứ ngày mai, ngày kia...lấy ở đâu ra?"

Dì Sâm đáp lại thế. Cái nồi trên bếp tỏa khói nóng, làm cay xè hai mắt. Con dở nó nhắc tới đám cá lóc ấy, làm dì muốn quên càng khó lòng quên được. Hôm qua có cá bán, cũng là do hôm bữa...gọi là có chút may đi. Lão chồng đi từ tờ mờ sáng, đến xế chiều lại vác về một xô cá đầy. Hỏi ra thì lão bảo say rượu, ngã xuống con rạch ở rìa bờ huyện, thấy cá quẫy quanh người thì cứ vớ lấy mà vồ, mà xiên. Dì nghe mà trong bụng hiểu ngay, chỉ cúi đầu dọn chỗ cho chồng ngồi. Cá ấy là cá người ta thả nuôi, chứ ruộng đồng, mương rạch giờ cạn sạch rồi, lấy đâu ra cá hoang. Mấy năm nay, khô hạn, nước cạn, người ta đắp ao, thả giống, canh giữ từng ngày. Công người ta đổ xuống ruộng, mồ hôi người ta chảy, tiền người ta bỏ ra từng đấu cám. Giờ lão đem về, trắng tay họ, trắng lòng mình.

Dì thấy tim mình thắt lại. Lão thì ngồi tựa cửa, mắt nhìn ra sân, khói thuốc rê (10) phả ra thành từng đụn nhỏ, bay tản đi theo gió. Mắt lão đờ đẫn, nhưng dì biết, trong bụng lão chẳng yên. Lão say, mà cái say buồn, cái say của kẻ bất lực, hết đường mưu sinh. Từ sáng, lão đi thuê gánh mướn ngoài đồng, gánh đến rộc người mà được có mấy hào. Cả nhà bao miệng ăn, đứa lớn đứa nhỏ, gạo hết, củ khô chẳng còn. Đêm qua, hai đứa út nằm rên hừ hừ, bụng lép xẹp, da xanh lét, dì nghe mà chẳng chợp mắt được. Dì nhìn lão thở dài. Cái xô cá này là ăn cắp, nhưng là thứ ăn cắp của kẻ cùng đường. Lão chồng mình cũng biết tội, cũng xấu hổ, nên mới im lìm không nói. Cái dáng ngồi của lão, lưng còng, mắt trũng, hai bàn tay chai sạn cứ xoa vào nhau, nhìn mà thương đến đau. Dì chẳng nỡ trách. Bởi trách thì được gì, khi chính dì cũng biết, lão là thương con, nên mới thành cơ sự này. 

Lấy của người ta là mất nhân nghĩa, là thất đức với trời, là phải tội. Rõ ràng trong lòng là thế, nhưng cái đói nó lấn hết cả phần suy tính. Biết sai, mà chẳng dám nói lão mang trả, vì biết có trả cũng chẳng ai thương. Người ta còn phải lo cho thân họ, ai mà san sẻ nổi cho người khổ hơn mình. Thất đức một phen, chứ không ăn thì chết mắt. Thôi nhắm mắt ăn công người ta, ăn mồ hôi người ta, ăn cả...miếng cơm con của người ta. 

Cá mang về nhiều, cũng bán hết. Dì chỉ để lại hai con to, đem cho vào nướng. Không để dành ăn được, vì cần tiền, cần đồng ra đồng vào để dành dụm, phòng hờ ốm đau, và cả gạo cám. Nãy dọn cơm, cá thơm nức mũi. Bọn nhỏ tranh nhau gắp, mặt đứa nào đứa đây sáng bừng. Dì ngồi nhìn, chẳng dám động đũa. Bát cháo cám nuốt chẳng trôi. Lão chồng cũng im thin thít, cúi đầu, nhai cọng rau dại, mắt nhìn đâu xa lắm. 

Nghĩ lại, dì Sâm ứa nước mắt. Vội vàng đưa tay lên, dì lấy cái tay áo rách quẹt quẹt: "Khói với chả lửa, cay hết cả mắt tao."

Nhài Thanh cũng nhìn xuống, mãi mới "ờ" một tiếng. "Thế ngồi lui ra chút, dì tránh khói đi."

"Ừ. Tao biết rồi.." Dì Sâm lần nữa đưa củ khoai tới, làm cái mặt nghiêm nghiêm: "Mà này, mày cầm lấy đi. Giờ không đói thì để dành đó, nào đói thì ăn."

"Tao ăn mấy cái củ này chán rồi. Ăn nhiều cũng khát nước, chê lắm."

Chán cái gì? Có được củ khoai là mừng lắm. Nói phét nói điêu cũng phải tìm cớ hẳn hoi chứ. Nhài Thanh bĩu môi. Đến khổ thế chứ lị, đã nói không ăn mà cứ dúi cho bằng được. Đấy, ai bảo đất này hết người tốt. Đầy người tốt, chỉ là người ta không chịu ngẩng mặt lên mà nhìn thôi. Chứ cô, cô thấy rồi. Thấy tận mắt, thấy tận lòng, rằng dì Sâm là người đàn bà tốt. Nhài Thanh vừa lẩm bẩm, vừa giơ hai tay đỡ lấy củ khoai nóng, xong lại để hờ lên cái thanh gác bếp cho nguội. Bàn tay nhỏ run run vì hơi nóng phả lên.

Thanh nhìn dì Sâm một lát, rồi luồn tay vào trong túi áo ngực, lôi ra một xâu tiền đồng được xỏ trong sợi dây kết bằng chỉ gai. Chẳng nói chẳng rằng, cô đưa tay, đút phắt xâu tiền vào túi áo rộng của dì. 

"Dì cầm lấy đi, con cho dì hết đấy." Nhài Thanh liếc liếc, đầu hơi nghiêng nghiêng.

Dì Sâm giật mình, một tay giữ lấy cổ tay dở, một tay lôi xâu tiền ra, nhét trả lại: "Bố mày, tao không có lấy đâu, cất đi."

"Dì dở à?" Thanh nheo mắt, môi mím mà cười: "Có tiền không thích thì thôi chứ lại còn kêu. Con ứ chịu, con cho dì. Dì không lấy là con giận đó nghen. Giận thật đấy chứ không đùa, con giận là con bỏ đi luôn, khỏi thèm mò qua đây chơi nữa." Nói rồi Nhài Thanh còn quay ngoắt đi, ra bộ giận hờn. 

"Mày..." Dì Sâm im lặng. Chừng một lát sau, dì mới thở ra: "Thôi được. Dì nợ mày, khi khác dì trả." 

Nhài Thanh quay sang, nở nụ cười hì hì: "Trả làm gì, dì lấy đâu ra tiền mà trả. Con mai, ngày mốt, ngày nào con cũng đi ăn vạ ăn xin, miệng con, tay con, bụng con, không chết đói đâu mà dì phải lo." 

Dì Sâm lưỡng lự nhìn cô, xâu tiền vừa thu về lại từ từ đưa ra phía trước: "Hay là, thôi đi. Tao với lão cày cuốc được. Mày để dành tiền, ít lâu thành nhiều....mới bớt khổ."

"Khổ là ở cái đầu, chứ không ở cái túi." Thanh sang sảng nói. Tay cô cầm củ khoai đưa lên, đút tọt vào túi áo, để lòi hẳn nửa ra ngoài. 
"Dì coi, con để đây, lúc đói lại moi ra ăn, khỏi cần nấu. Đời mà, ăn được là quý, no được là may. Tiền đó rồi con cũng một mình ăn hết... cho dì, khéo mấy mình ăn. Thế có phải là con làm phước không?"

Dì Sâm nhẹ lắc đầu, vừa cười vừa buồn. Dì quay sang, khẽ đưa lên vuốt mấy sợi tóc rối của cô, ếp xuống cho vào nếp.  

"Nói thật, tao ganh với mày đó. Sao mà mày liều thế, cái gì cũng dám làm, nói cũng dám nói."

Nhài Thanh khịt mũi, rướn người với lấy cây củi khô ném vô đống lửa. Củi bén nhanh, cháy bập bùng, ánh sáng hắt lên đôi mặt hai người, chập chờn sáng tối. Dì Sâm chỉ chỉ vào đống lửa, giọng pha chút trách:

"Mày coi chừng đấy. Mày không sợ mày giống cây củi khô hả dở? Cứng quá, giòn quá, cũng dễ gãy lắm."

Thanh nghiêng đầu, bóng cô đổ dài lên vách đất, nhúc nhích theo từng ánh lửa.

"Con á? Con sợ gì đây. Cha con, chẳng biết mặt. Má con, chẳng còn đâu. Anh chị em, càng không hay. Có vướng bận gì đâu mà sợ gãy với gập. Với lại, dì nói sai rồi. Con không phải cây củi khô đâu, con là ngọn lửa kìa. Ngọn lửa, dì hiểu không, lửa thì có gãy bao giờ."

Dở dừng lại, chống cằm nhìn dì Sâm, đôi mắt sáng lạ thường. Đột nhiên, ngoài ngõ bỗng vang nên ba tiếng chó sủa. Hai người cùng quay ra, thấy sau rào tre thấp có con chó đen xám đang lè lưỡi, đuôi ve vẩy, mắt nhìn lom lom vô bếp. Nhài Thanh híp mắt, chăm chú nhìn, khi đã nhận rõ liền nhe răng cười. Cô ngoắc ngoắc tay, con chó đằng xa liền phóng qua rào, móng chân cào đất tung bụi. Nó nhào tới gần, dụi mõm vào tay áo Thanh. Nhài Thanh sờ sờ tay chó, hùng hổ quát: 

"Con quỷ Phèn này, bữa giờ mày đi đâu biệt tăm, báo hại tao tìm trên dưới phát mệt."

"Gâu… gâu…" Con chó vẫy đuôi liên tục, đít vểnh lên như lấy lòng. 

Dì Sâm thấy trên đầu con chó buộc miếng vải rách ngang tai, ở cổ vắt sợi dây dại buộc với nửa vỏ lon méo. Chỗ sườn bụng có vết đỏ hồng lớn, lại không có lông đoạn đó, đoán chừng đây là bị bỏng. Dì chau mày: “Mày làm chi mà nó ra nông nỗi này? Cái gì trên đầu thế kia?"

Thanh dở vỗ vỗ lưng con chó, ra hiệu cho nó ngồi gọn ở góc đằng xa. Sau đó mới rõ ràng, rành mạch trả lời: "Đó là đồ nghề ăn xin của bạn con. Còi Phèn khôn lắm đó dì. Dì chẳng biết chi hết trơn hết trọi. Chán dì lắm."

Dì Sâm ngồi thừ ra, nhìn cái tay con bé vuốt ve bộ lông xơ xác của con chó gầy.Thứ tình của nó lạ lắm. Nó gọi con chó ấy là bạn? Người ta sống cả đời, nhiều khi ăn nói trơn tru, cúi chào nhau đủ điều, mà chẳng mấy ai có nổi một tấm lòng thật với ai. Chả có nhẽ, con người với con vật sẽ thật lòng? Nó không sợ một ngày chó dại lên cơn, cắn cho một phát...là thôi, đi đời luôn sao?  

Dì Sâm nhìn con dở cười cười mà trong bụng cũng bật ra một tiếng cười nhỏ. Cười rồi lại thấy lạ, thấy ngờ ngợ chính mình. Cái thân này, đã sống nửa đời người, trải khổ quá đủ, mà giờ lại ngồi đây, để lòng lay động bởi chuyện một con chó. Dì thấy mình chắc hẳn điên mất rồi. Cái thân dì mất hết tin với người, bây giờ lại sợ cả tin với "chó" thì có phải cười không? Ôi thôi! Cái đầu mình hỏng rồi. 

"Ô hay cái dì này. Cứ ngồi, nãy thì đần, giờ thì nhăn." Nhài Thanh chẹp miệng, lúc này đã quay hẳn người sang nhìn dì Sâm. Dở không đợi dì đáp, mà dở đã nói tiếp, nói luyên thuyên cái chuyện bị con chó xen ngang:

"Biết sao con là ngọn lửa, chớ không phải là cây củi khô đó không?"

"Con người sống trên đời, dì à, có một lần thôi. Sống sao cho đáng, chứ không phải cho yên. Con mà chịu sống kiếp đầy tớ, cúi đầu để no bụng, thì thà cho con chết đói giữa đường còn hơn. Con là con muốn được làm điều con ưng, muốn được khóc, được cười, được điên,được tỉnh. Muốn sống cái đời tự do như gió. Đời có thế mới ra đời chứ."

Dì Sâm lắc lắc đầu. Dì nhìn chủ, nhìn chó, rồi nhìn chính mình. Con dở nó còn nhỏ, sự tình đời cũng chưa thông, thì làm sao hiểu hết được những khổ ải trắc trở luôn nhen nhói ấy?

Nó, chỉ nhìn được một chiều. Mà cái người ta cần, là cái nhìn đa diện cơ mà. 

"Mày nói nghe lớn lao lắm, mà đời không chiều lòng đâu con ạ. Lửa cháy dữ quá cũng tự tàn thôi. Mày tin tao đi, không có theo ý mình đâu.."

- Hết chương 11

Chú thích:

(1) Canh rau tập tàng: Là một món canh dân dã của Việt Nam, được nấu từ hỗn hợp nhiều loại rau khác nhau, thường là rau mọc dại hoặc rau vườn như rau dền, mồng tơi, rau sam, mã đề, rau má, lá lốt, bồ ngót.

Có 3 cách giải thích cho tên gọi rau tập tàng:
“Tập tàng” được hiểu là nhiều thứ có giá trị không đáng kể được trộn lộn xộn vào với nhau.

Chữ “tàng” ý chỉ bộ thảo, mang nghĩa cỏ hoang, nôm na là "rau tập tàng" gồm các loại cỏ ăn được (theo Hoàng Phủ Ngọc Tường).

Từ “tập tàng” là cách nói lệch âm của “thập toàn” ý chỉ 10 loại rau quý (theo người Huế xưa). 

Thông tin khái niệm rau tập tàng, tham khảo tại:https://www.dienmayxanh.com/vao-bep/rau-tap-tang-la-rau-gi-tong-hop-2-cach-nau-canh-rau-tap-tang-22071 srsltid=AfmBOooY-HuGhajIRhuDaki3zADL_Ih5pkSwmW5tzfUUUMuTNpYjmv1R

(2) Rau sam: Là một loại cây thân cỏ mọng nước, có thân bò sát đất, lá nhỏ, vị hơi mặn và chua. Thông thường, chúng thường mọc dại ở những vùng đất ẩm ướt, bãi đất trống, ven đường. Có tên gọi khác là Trường thọ thái, hoặc Mã xỉ thái, Mã xỉ hiện.

(3) Cây lẻ bạn: Cây lẻ bạn hay còn gọi là cây sò huyết hoặc cây lão bạng, là một loại cây thân thảo sống lâu năm, có lá màu xanh ở mặt trên và tím ở mặt dưới. Cây được trồng phổ biến để trang trí cảnh quan và có giá trị trong y học cổ truyền với tác dụng thanh nhiệt, làm mát cơ thể, chữa các bệnh về đường hô hấp như ho, khạc đờm...

(4) Rau dền gai: Là một loại cây thân thảo, lá rau có hình trái xoan, màu xanh, cuống dài. Hoa rau có màu đỏ hoặc vàng, mọc thành chùm ở đầu hoặc nách lá. Rau dền gai là một loại rau ăn được, có vị ngọt, nhạt, tính hơi lạnh. Theo y học cổ truyền, rau dền gai là loại thảo dược quý chứa nhiều chất dinh dưỡng và hoạt chất sinh học, có tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu, hạ sốt, điều kinh, trị lậu, trĩ, viêm phổi, lỵ, sốt rét, chàm, đau bụng, lợi sữa..

(5) Rau càng cua: Là loại rau thuộc họ hồ tiêu. Thân có tính nhớt, lá nhỏ, hình dạng trái tim. Rau vị ngọt, chua, dai giòn. Rau có chứa nhiều vi chất, là những chất dinh dưỡng rất tốt cho sức khỏe.

(6) Cỏ gà: Hay còn được gọi là cỏ chỉ, cỏ giường, cỏ ống....là một loại cỏ nhỏ, thân rễ ngắn, sống dai do thường mọc thành thảm dày đặc. Thân nhiều cành, mọc nằm sát đất, có khi bám nhánh hoặc phát nhánh thẳng đứng. Cỏ gà có vị ngọt, hơi đắng, tính mát. Có tác dụng lợi tiểu, giải độc, lọc máu, giải nhiệt, giải khát, tiêu đờm..

(7) Củ nâu: Củ nâu là thực vật dây leo, ở gốc có nhiều gai, còn phần trên nhẵn. Lá mọc đối xứng ở ngọn và mọc cách ở phần gốc. Củ phát triển ở trên mặt đất, thịt bên trong có màu đỏ, vỏ ngoài màu nâu và sần sùi. Củ nâu khá giống với củ khoai lang nhưng hình dạng tròn hơn. Vì có nhựa màu đỏ đặc trưng nên con người thường dùng để nhuộm vải. Củ nêu có có vị ngọt nhẹ, tính hàn, tác dụng cầm máu, sát trùng, hoạt huyết và chỉ thống, thảo dược này còn được dùng để điều trị khí hư ở phụ nữ, tiêu chảy, kiết lỵ, liệt nửa người. Một số tên gọi khác như: Dây tẽn, Vũ dư lương, Củ nầng, Thự lương, Giả khôi, Má bau.

 (8) Củ ấu: Là quả của cây ấu nước, một loại cây thủy sinh sống ở các ao đầm. Củ ấu có vỏ cứng màu đen, bên trong là phần thịt màu trắng bùi, ngọt và chứa hạt ăn được. Củ ấu có vẻ ngoài đặc trưng là hai "sừng" phát triển từ lá đài. 

(9) Củ ấu tẩu: Củ ấu tẩu hay còn gọi là gấu tẩu, ấu tàu, co ú tàu, thảo ô... được thu hoạch từ cây ô đầu, một loại cây thường mọc hoang ở vùng núi cao các tỉnh miền núi như: Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái...Theo tài liệu dược học, cây ô đầu là một vị thuốc quý nhưng có chứa độc tính mạnh. 

(10) Thuốc rê: Thuốc rê hay còn gọi là thuốc lá sợi, là loại thuốc lá được sử dụng rộng rãi trong nhiều nền văn hóa. Được chế biến từ lá thuốc lào phơi khô và thái sợi nhỏ, không qua chế biến công nghiệp, mang hương vị mộc mạc. Người dùng sẽ cuốn thuốc rê thành điếu bằng giấy hoặc lá cây để hút, đặc biệt phổ biến ở nông thôn. 


0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout