Tiếng khóc ấy bé lắm, váng vất giống tiếng mèo con rơi xuống vũng nước, nghe não nùng mà lạnh lẽo đến rợn người. Thanh Dở giật thót, rụt cổ lại, vội thu người, tiện tay vớ luôn miếng chuối nướng với bánh tiêu, nhét tọt vào vạt áo, phòng khi có chuyện chẳng lành. Đôi mắt cô láo liên nhìn quanh, mặt nhăn lại như ông lão tám chục nhai trầu khô mà thiếu vôi, nheo nheo ngó nghiêng xuyên thấu bóng tối. Cô nằm nín thở, lắng tai mà nghe. Trong bụng dấy lên một nỗi nghi hoặc:
“Ở đâu ra cái tiếng khóc quái lạ này cà?”
Tiếng khóc cứ rấm rứt, nhỏ xíu. Nhài Thanh lắng tai, mày cau chặt, hơi thở nặng trĩu. Đêm khuya đã khiến bụng cô cồn cào nhưng cô chẳng buồn nghĩ tới miếng ăn nữa, cái gì đằng đó, cái gì bên tai, âm u, ma mị hơn cơn đói đang kéo cô về phía trước. Thanh Dở vẫn bất động, chỉ có con ngươi đảo quanh, tay quờ quạng trước mặt. Lưng cô hơi co lại. Rồichợt quyết, cô nhỏm dậy, phủi mấy cọng rơm dính trên lưng, chép miệng mà rùng mình, lầm bầm trong cổ họng, mếu máo:
“Ối cha mẹ ôi, ai mà khóc lóc rủ rỉ giữa đêm hôm khuya khoắt? Hay là…ma quỷ trôi sông, hồn oan chết đói?”
Vừa nghĩ đến, gáy Nhài Thanh rờn rợn, một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng, dựng hết lông tay lông chân. Nhưng cái tính tò mò của cô vốn nặng, cô nhắm mắt thở phù một hơi, thò tay vô vạt áo rút cái bánh tiêu ra, cắn đánh “phập” một miếng, nhai nhóp nhép, lấy cái nhai bù lại cái sợ. Thanh nhón chân bước, chầm chậm, hơi thở phà ra từng luồng. Lần theo âm thanh ấy, cô rón rén qua một bờ tre, lách mình qua một lùm cây, đi độ ba mươi bước về hướng Tây thì khựng lại.
Trước mặt Nhài Thanh, hiện ra một túp lều rách bươm. Cái túp lều này, cô chưa từng thấy qua!
Thanh Dở ở cái làng này cũng dăm tuần rồi, ban ngày chạy lêu lổng khắp chợ, ban đêm thì co ro đâu đó, chỗ nào có mái che là cô chui vào ngủ. Cô nhớ rõ, trước khi cô lê thân lên làng trên, ngủ rày đây mai đó, nơi này nào có túp lều nào? Vậy mà giờ lại chềnh ềnh một cái lều nát, quái lạ hết sức!
Lòng Nhài Thanh bỗng trào lên một nỗi bất an. Túp lều vừa mọc ra từ lòng đất? Có ai vừa dựng lên trong đêm tối?
Cửa lều khẽ rung, ánh trăng hắt bóng nghiêng nghiêng lên vách, in hình một thứ gì đó nhúc nhích. Gió luồn qua kẽ hở, mang theo tiếng khóc lẫn vào trong gió, thê lương đến gai người.
"Hay là…ma thật?" Nhài Thanh lẩm nhẩm.
Tiếng khóc mỗi lúc một rõ hơn. Nhài Thanh bước thêm dăm ba bước, rút người vào sau gốc xoài già, hơi thở nén lại trong lồng ngực. Ánh trăng nhạt hắt qua kẽ lá, đủ soi rõ cảnh trước mắt. Trước mặt cô, túp lều xiêu vẹo hiện lên rõ những mái lợp rơm rạ sơ sài, bốn vách quây bằng chiếu rách vá chằng vá đụp, trông rất thảm hại. Một ánh đèn dầu leo lét trong lều, hắt ra những vệt sáng mờ, cứ chập chờn và chập chờn. Tiếng khóc rõ ràng phát ra từ trong đó.
Bỗng nhiên, tiếng khóc ngưng bặt. Một giọng hát run rẩy cất lên, đứt quãng nhưng từng chữ vẫn thấm vào đêm. Nhài Thanh ghé tai lắng nghe, giọng ấy xé lòng, vừa nức nở, vừa than van. Không phải hát cho ai, mà là hát cho chính mình, bóc từng thớ thịt trong lồng ngực mà rên xiết.
"Hò ơi...à
Sinh ra phận gái nhà quan
Chưa từng lấm bụi, chưa than một lời.
Mẹ hiền khuất bóng mây trời,
Cha thì ghét bỏ, rẻ khinh thân hèn.
Ngày xưa khuê các mộng vàng,
Bây giờ áo vá, cơ hàn ngửa tay.
Lời yêu như gió thoảng bay,
Bạc tình một khắc, đoạ đày một thân.
A..à.
Giữa đời lắm kẻ cười cợt,
Nhìn ta như thể chó hoang đầu đường.
Một lần bước lỡ tai ương,
Ngàn năm hổ thẹn gió sương dãi dầu.
Trăng soi vạt cỏ mái đầu,
Thân tàn bóng xế, nhục đâu cho vừa?
Muốn gieo mình xuống cõi bờ,
Lại thương thân mẹ ây à.., xót giờ hồn hoang...à ơi..
Hò ơi....!"
Tiếng khóc này, thoạt đầu chỉ là những âm thanh run rẩy trong bóng tối, rồi dần dà hóa thành một lời ca. Giọng hát ấy oán lắm, từng chữ nhỏ xuống đất, mơ hồ hóa thành từng giọt máu rỉ, nghẹn ngào mà não nề, bi thương đến mức khiến người nghe cũng phải tức thở. Hát đến đó, người kia bỗng nấc lên, tiếng nghẹn quặn trong lồng ngực, rồi từng chút từng chút một đứt đoạn. Thanh nghe còn tưởng là con chim nhỏ bị gió rét bứt hơi giữa trời đông. Rồi nàng lại cất giọng, không còn là câu hát vần, mà là một câu hò dài:
"Mẹ mất rồi, con côi cút mãi,
Như cánh bèo trôi, biết tựa vào ai đây?
Lời kết thúc, gió bỗng nổi lên. Mấy tàu chuối sau lưng Nhài Thanh xao xác lay động, bóng lá xô nghiêng dưới ánh trăng, đổ xuống đất những vệt tối dài ngoằng. Nhài Thanh rợn tóc gáy, gai lạnh chạy dọc sống lưng. Cô nuốt vội miếng bánh tiêu còn dang dở trong miệng, thoáng quay ngang quay ngửa. Cái vườn này lâu nay chẳng ai bén mảng tới, chỉ vì lời đồn rằng có ma hiện về trong những đêm trăng tròn.
Mà cái nó vừa nghe... rõ ràng là tiếng khóc, rồi tiếng hát mềm mềm...
“Chả lẽ là ma nữ? Con yêu nghiệt phương nào vậy trời..” Nhài Thanh lầm bầm, giọng lí nhí, trong lòng dấy lên chút e dè thật sự. Cô đứng nấp sau gốc xoài, mắt không rời khỏi ánh sáng le lói hắt ra bên trong túp lều. Một cái bóng thấp thoáng in lên vách chiếu rách, động đậy theo nhịp hơi thở. Người thật hay ma? Là ma hay người? Nhài Thanh nhíu mày, đầu óc xoay vần suy nghĩ. Cô chợt nhếch môi, lắc đầu cười khẩy, là người. Nhất định là người.
"Ma quỷ không thể nào hát hò hay như vậy được!" Nhài Thanh ngây ngây, lập tức khẳng định là như vậy. Phải nói là tâm trạng cô thay đổi rất nhanh. Không còn sợ hãi. Lòng dạ cô chùng xuống, nhưng không phải vì thương. Mà là… khoái! Ừ, khoái nghe chuyện bi ai, khoái ngó cảnh đời éo le, khoái nhất là được nếm chút bí mật của kẻ khác. Cái cảm giác nửa hư nửa thực này kích thích cô đến kỳ lạ. Nhài Thanh hắng giọng, lại chép miệng nói với chính mình:
“Nỉ non sầu thảm nghe mà sờn cả tóc gáy. Nhưng mà…cái giọng hay thật! Mềm mại, úi cha! Ngọt lịm cơ đấy. Mà tiên sư quân mất nết, cái đời này nó còn muốn khổ hơn mình hay sao?”
Nhài Thanh cúi xuống, nhón chân rón rén tiến thêm một chút, cái đầu nhỏ nhô ra, mắt láo liên soi xét. Trong bụng cô lẩm bẩm: "Ứ hự, hay vào xem mặt?"
Thanh Dở vừa thán một câu liền nhích tới, bàn tay vô thức xoa xoa vào vạt áo, cái môi vén lên, cái cổ rướn ra, mắt hấp háy nhìn vào. Cô chỉ cách khoảng độ mười bước thôi là chui tọt vào trỏng. Nhài Thanh nheo mắt, quan sát từng chút một.
Dưới đất, rơm rạ vương vãi tứ tung, chỗ thì nhàu nát, chỗ lại ẩm thấp. Cô lắc đầu: Đã khóc thì phải chọn chỗ khóc cho đàng hoàng chớ! Ai lại khóc ở nơi này. Chán thật. Mà ai ta? Con điên nào khóc ở nơi này ta?
Nhài Thanh đứng lặng, mắt hau háu dõi vào bóng tối. Một chút e dè lóe lên, nhưng rồi hiếu kỳ lại bùng lên như nước vỡ bờ. Tay cô vô thức vò vò vạt áo, rồi lại buông ra. "Nhìn một chút thôi. Nhìn rồi chạy cũng chưa muộn."
Cô tính tới trường hợp trong lều là một kẻ điên hơn cô, hay lỡ đâu là một oan hồn thật thì… chỉ có quăng giò mà chạy. Nhưng mà chạy được không thì cô cũng chẳng dám chắc. Thôi kệ, tò mò đánh chết con bò. Nghĩ thế, Nhài Thanh rón rén tiến lên.Hai bước, ba bước, càng lúc càng gần. Tim cô đập thình thịch, dội vào lồng ngực từng nhịp mạnh.
Bỗng...
Tiếng khóc kia ngưng bặt.
Nhài Thanh giật bắn mình, chân khựng giữa chừng. Đầu cô đã thò vào trong, đôi mắt đang híp híp bất chợt mở to hết cỡ. Dưới mái lều tạm bợ, chân vừa đặt vào thềm, chưa kịp nhích thêm bước nữa, tim đã rớt đánh “bịch” xuống tận bụng.
Thanh Dở bất động.
Ngồi nơi góc giường tre, có một người con gái.
Áo ngũ thân màu tím nhạt, sắc vải nhẹ tựa mây, mượt hoá nước, khẽ động theo từng cử chỉ. Gấu áo điểm chỉ kim, lấp lánh ánh sáng. Chân xỏ hài lụa, mũi hài thêu hoa cúc, từng đường chỉ ngay hàng thẳng lối, tinh xảo đến mức làm người ta muốn cúi xuống mà ngắm cho kỹ.
Hài đẹp, áo đẹp.
Nhưng đến khi ngước lên…
Ối cha mạ ơi, khổ chưa.
Lần đầu tiên Nhài Thanh mới biết thế nào là một người đẹp.
Đẹp gì mà đẹp đến thế...! Đẹp cỡ này thì hoa ri cũng phải xếp hàng chào thua, Hằng Nga cũng phải thẹn thùng tránh mặt.
Khuôn mặt đằng ấy trái xoan, nét tròn trịa phúc hậu nhưng chẳng hề thô. Da dẻ trắng hồng, chẳng phải thứ trắng xanh của kẻ đau ốm, mà cũng chẳng phải thứ hồng lòe của hạng rỗi hơi tô phấn dặm son. Da ấy là da tuyết phủ ánh hồng, đào chín đầu xuân, mịn màng trơn láng, nom mà chỉ muốn đưa tay lên chạm thử.
Nhưng khổ nỗi, đôi mắt kia lại vương đầy nước.
Mắt hạnh dài, đuôi hơi cong, khi cười chắc là dịu dàng giống gió mát, nhưng bây giờ, lại hoe hoe đỏ, long lanh ngấn lệ. Mi dài, mảnh, rợp bóng. Lệ nặng làm hàng mi hơi trĩu xuống, cái buồn càng thêm cái đẹp. Nước mắt lăn xuống, trong suốt na ná hạt châu, rơi đến đâu, để lại trên gò má một vệt óng ánh chả khác gì tơ trời.
Người đẹp mà khóc, Thanh Dở thấy như bị ai cắt vào ruột.
Mày lá liễu thanh mảnh, lượn cong mềm mại, hệt nét bút lông phẩy nhẹ trên giấy dó. Mũi cao vừa vặn, chóp mũi tròn trịa, tựa hạt gạo nếp cái mới đồ chín. Miệng nhỏ nhắn, chúm chím, không cần điểm son mà vẫn hồng hào. Khi nàng mím môi, môi dưới hơi cong lên một chút, y rằng thành chỗ búp sen còn khép.
Nhưng mái tóc kia mới thực sự làm người ta muốn thở dài một hơi.
Tóc đen giống gỗ mun, suôn mượt giống dòng suối nhỏ lặng chảy trong rừng. Chỗ búi lên gọn gàng, cài một chiếc trâm bạc chạm khắc hình hoa sen, nhã nhặn mà quý khí, nhìn là biết không phải thứ hàng chợ. Lọn tóc mai hai bên buông nhẹ, hơi cong, tựa bóng hai nét vẽ thừa của dân gian mà lại đắt giá vô cùng.
Thanh Dở đứng trân trân, hồn vía đã bị ai câu đi mất.
Người đẹp như vầy, đặt giữa làng chợ thì người qua kẻ lại chắc chắn phải bước chậm lại mà ngó, mà trầm trồ, mà thở than. Huống hồ, người đẹp này lại đang khóc.
Trời ơi, sao lại khóc?!
Người đẹp mà khóc, khóc còn đẹp hơn cười, thì thiên hạ làm sao mà chịu nổi?
Thanh Dở nuốt nước bọt, muốn nói gì đó mà lưỡi ríu lại. Chả biết cẳng chân nào đưa đẩy, cẳng tay nào xô giạt, chỉ hay lúc sực tỉnh, mình đã đứng chình ình giữa gian lều nát, nền đất nứt nẻ, bốc mùi rơm rạ cũ ngai ngái. Chõng tre lung lay, bát sứt bày lổng chổng, mái tranh thủng từng mảng, ánh sáng lọt vào.
Nhưng nào hay!
Mắt dở trừng lớn, lồng ngực nện thình thịch, tim bay loạn xạ.
Bùi Thị Huê!
Ối chao ôi, trời đất ạ, là nó thật! Là nó hiện hình!
Nhài Thanh vừa mới nhận ra thôi! Nhận ra còn hơn nhận bóng mình in dưới đáy chum, hơn nhận tiếng gà gáy mỗi sáng tinh mơ. Cái dáng ấy, cái eo lượn ấy, cánh tay trắng như bột ấy, từng nét, từng nét, cứa sâu trong trí nhớ.
Chớ nào phải lạ lẫm chi! Bởi lẽ ngày nào, cứ tảng sáng là cô lại rình nó, nhìn nó. Đàn bà con gái, ai cấm ngắm cái đẹp bao giờ?
Nhưng cái đẹp của Thị Huê, đâu phải thứ đem ví với hoa cỏ đầu làng? Nó chẳng phải bông sen nở muộn nơi ao, chẳng phải cánh mai vàng quẩn quất bên hiên. Nó là ngọc khuê trong màn gấm, là trăng non giữa trời thu, cái đẹp mà ông trời ban riêng, khiến hoa cũng thẹn, trăng cũng nhạt.
Người trong làng vỗ tay bôm bốp nói rằng nó là niềm tự hào của cái làng nghèo, là viên minh châu của cả Đông Tụ, của cả cái chân trời rách nát này.
Đừng tưởng bịa, chớ có đùa, chuyện ni không phải tầm phào, mà đã khắc khắc rành rành trong sách làng rồi. Tên tuổi, tánh nết...ghi ngay trang đầu, viết to tổ bố.
Cái gì mà, tiên nữ hạ phàm với làn
da trắng mịn, phơn phớt sắc hồng. Mái tóc đổ dài, đen tuyền, mượt hơn tơ óng, vấn lên thì gọn gàng, xõa xuống thì như dòng suối. Mắt hạnh, thăm thẳm ánh lên màu trăng rằm, long lanh tựa có nghìn tâm sự chưa cất thành lời. Đôi môi chúm chím, mỗi lần nàng cười là một lần thiên hạ ngẩn ngơ, bởi khoé miệng thấp thoáng chiếc răng khểnh, như ghẹo, như trêu, như thách thức lòng người.
Nhưng đâu chỉ có nhan sắc! Tiên nữ hạ phàm "Bùi Thị Huê" còn biết chọn chỗ giáng trần. Chọn ngay cái nhà giàu ú ụ, nết khuê môn, ăn nói dịu dàng, đi đứng khoan thai, cười chẳng lộ răng, nói chẳng quá ba phần thân mật. Tiên nữ là con gái duy nhất nhà Ông Tộp, được nuôi trong gấm vóc, chăm trong lụa là. Cái làng này, bao nhiêu gã trai quỳ rạp cúi đầu, bao nhiêu kẻ thèm khát mong được nàng đoái hoài, một lần ngoái nhìn cũng đủ để nhớ nhau đến bạc tóc.
Mà có ai sánh nổi với nàng đâu?
Nhài Thanh đứng thộn ra, đôi mắt cứ dán chặt không rời, miệng há to đến nỗi con ruồi bay vào cũng chẳng biết mà đuổi. Tận đến khi cảm thấy ươn ướt nơi cằm, cô mới giật mình, luống cuống đưa tay quệt ngang nước dãi.
Ban nãy nghe giọng, Thanh cũng đã nghĩ ngay đến Thị Huê. Cô nghĩ nó đẹp thế, thì giọng cũng phải gọi là bắt tai. Trước giờ chỉ dám tưởng tượng, ai dè, giờ nghe thật, mới hay, cái giọng ấy, ôi chao! Rót thẳng vào lòng, nghe một lần là đủ nhớ đến ba năm.
Nhưng mà…
Nhài Thanh gãi đầu, nghiêng nghiêng cổ, mắt láo liên nhìn quanh.
Sao cứ có cái gì đó sai sai nhờ?!
Thị Huê thôi khóc, bàn tay trắng nõn quệt ngang đôi mắt hoe hoe đỏ. Nhưng mà lạ lắm, cái tay ấy hôm nay chẳng còn nõn nà, bóng bẩy như thuở còn chốn cao sang, mà lại lấm bẩn, vương bụi, móng tay còn có đất len vào kẽ. Nàng quệt quệt vài cái, rồi lại ngồi thừ ra, mắt nhìn xuống nền đất, chẳng nói chẳng rằng, dáng tiu nghỉu.
Nhài Thanh nhìn một lúc, rồi đầu óc như bừng sáng.
Sai! Sai là sai ở chỗ...nó là con gái nhà Ông Tộp, cái kẻ phú hộ mà cô vừa chửi xéo để ăn xin ấy! Tiểu thư cành vàng lá ngọc, ăn ngon mặc đẹp, gấm vóc phủ thân, nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa, sao lại lủi thủi ngồi bệt ở đây, giữa cái xó rách nát này?
Mà chẳng những ngồi, nó còn khóc!
Ờ, là khóc thật chứ chẳng phải là mè nheo làm bộ.
Quái quỷ thật!
Nhài Thanh nheo mắt, gãi gãi cái đầu bù xù, bấm bụng nghĩ. Cô hắng giọng một cái, dẩu môi nói luôn, giọng ngang phè phè, không thèm nể nang:
“Mày sao lại lò dò vô đây? Nhà cao cửa rộng không ở, lại chui rúc trong cái vườn hoang này, tranh chỗ của hạng khố rách áo ôm làm gì?”
Người con gái ngồi trong góc giường giật bắn, rõ ràng là nãy giờ chẳng hay biết có kẻ đang đứng nhìn mình lom lom. Nàng co rúm lại, thân mình rụt hẳn vào trong, hai tay ôm lấy nhau. Thanh dở thấy nàng quay đầu về mình, im im một lát rồi mới run run nói. Nghe ngữ điệu này, là con bé Thị Huê đang sợ:
“Ai… ai đấy?”
-Hết chương 6-
Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!




Bình luận
Đi rừng :)))
Đẹp dữ vậy sao 🤣🤣🤣🤣