Anh Hùng vẫn đứng đợi ở chỗ cũ. Chúng tôi tiếp tục đi bộ theo hướng về phía trường tiểu học. Anh mặc áo thun trắng và quần kaki màu tối. Dù hôm nay trời không nắng cũng chẳng mưa, anh vẫn đội chiếc mũ lưỡi trai cũ quen thuộc.
“Lũ trẻ háo hức chờ cậu từ tối qua rồi đấy.” Anh vừa bước đi vừa cười. “Cứ tí lại hỏi: ‘Mai thầy Phong đến chưa, thầy Phong đến chưa?’ Mệt lắm.”
“Thật luôn á anh?” Tôi bật cười, gãi đầu. “Em không nghĩ tụi nhỏ lại mong đợi như vậy.”
“Chứ ai làm tụi nó mê được như cậu? Mà nay mình không qua trường tiểu học đâu, đang đóng cửa sửa sang để chuẩn bị cho năm học mới rồi.”
“Vậy mình đi đâu hả anh?”
“Dẫn cậu ra nhà văn hóa.” Anh đáp. “Ngay gần thôi, đi qua đồn công an một đoạn.”
Đúng như anh Hùng nói, sau khi đi qua đồn công an, nơi tôi từng đến để báo cáo về người đàn ông chụp lén, có một con ngõ nhỏ rẽ vào bên tay trái, lối đi hơi hẹp nhưng đủ để cho hai chiếc xe máy chạy ngược chiều. Đi sâu vào cuối con đường lát bê tông cũ, một ngôi nhà lớn hiện ra. Cánh cổng sắt được sơn màu xanh đã bắt đầu bong tróc ở vài chỗ. Trên cổng treo tấm biển lớn: Nhà Văn Hóa – Tổ dân phố E.
Anh Hùng cúi người mở khóa chiếc xích xe đạp đang cuốn quanh cổng. Trước nhà văn hóa là một khoảng sân nhỏ lát gạch đỏ, vài viên đã nứt toác, để lộ lớp đất bên dưới khô cứng và xám màu.
Tôi đưa mắt nhìn về tòa nhà phía trước. Một vài đứa trẻ đã đứng đợi sẵn ở đó, vẫy tay ríu rít. Trong số đó tôi nhận ra Nhung, cô bé duy nhất trong nhóm. Vừa thấy tôi bước lên bậc thềm, chúng đã đồng loạt chạy lại, cười vang rồi kéo tay tôi vào trong không chờ tôi kịp phản ứng.
Chúng dắt tôi vào một căn phòng có cửa kính mờ. Bên trong là một không gian rộng với trần nhà cao vút. Trên trần treo bốn bộ đèn chiếu sáng, ánh sáng trắng dịu hắt xuống nền gạch. Một vài mảng rêu xanh đã bám loang lổ quanh mép trần gợi cảm giác cũ kỹ, ẩm thấp của nơi ít được lau chùi thường xuyên.
Cuối phòng là một sân khấu nhỏ, nâng cao hơn nền phòng chừng ba bậc. Trên sân khấu đặt một bục phát biểu bằng gỗ, phía trước bục được gắn biểu tượng của Đoàn Thanh niên. Đằng sau, sát bức tường là một chiếc đàn piano điện tử, được phủ kín trong bao đựng màu đen, trông còn khá mới và không có bụi bám. Sàn nhà chỗ lũ trẻ ngồi được trải một lớp chiếu mỏng, ở mép chiếu là những chiếc ba lô nhỏ xếp lộn xộn.
Vừa thấy có người bước vào, chúng đồng loạt ngừng chơi cờ vua, rồi cùng bật dậy chạy về phía cửa.
Tụi nhỏ ôm lấy chân tôi, ríu rít gọi. Từng đứa, từng đứa cố chen vào, tìm chỗ gần tôi nhất như thể sợ bị bỏ lại.
“Thầy ơi! Thầy ơi!” Một cậu bé vừa nói vừa nhảy cẫng lên. “Thầy dạy xong ở lại ăn cơm trưa với bọn em nha! Chiều thầy đi bơi với tụi em luôn được không?”
Tôi bật cười, gật đầu, đưa tay xoa đầu thằng bé và những đứa xung quanh. Cả bọn lập tức reo lên ầm ĩ, náo nhiệt như ong vỡ tổ, như thể vừa nhận được món quà lớn nhất trong ngày.
Tôi bắt đầu buổi dạy bằng việc kiểm tra lại bài hôm kia: khai cuộc Ý. Lũ trẻ vẫn nhớ rõ cách đi quân cơ bản và cả một vài biến thể mở đầu. Dù đây chỉ là bài học dành cho người mới bắt đầu nhưng với tôi như vậy đã là rất tốt. Ít nhất thì chúng đã nhớ bài và quan trọng hơn cả là chúng vẫn chọn chơi cờ vua ngay cả khi xung quanh có hàng tá trò vui khác.
Buổi học vẫn theo đúng lịch: một tiếng đồng hồ. 15 phút đầu, tôi dành để giảng thêm về khai cuộc tập trung vào các biến thể và những chiếc bẫy thường gặp. Tôi chiếu lên màn hình một vài ván cờ minh họa. Đó không phải là những ván cờ trong giáo trình, mà là các ván đấu thực tế của những học sinh tại câu lạc bộ cờ vua nơi tôi đang giảng dạy. Nhờ vậy, bài học trở nên trực quan và gần gũi hơn. Tôi luôn tin rằng với phần trung cuộc, tư duy của người thời nay đã có nhiều điểm vượt trội so với những bậc tiền nhân. Chính vì thế, các ván cờ hiện đại không chỉ dễ hiểu mà còn truyền cảm hứng mạnh mẽ hơn cho những người mới bắt đầu.
Sau phần lý thuyết, tôi cho lũ trẻ chia cặp thi đấu theo các mốc thời gian: 10 phút, 5 phút, 3 phút, và 1 phút. Khác với buổi trước, lần này tôi đấu với anh Hùng. Người mà lẽ ra phải ngồi nghe giảng từ buổi đầu. Đúng như anh từng nói, anh đã tham gia nhiều giải đấu cấp thành phố trước đây. Dù đã không còn thi đấu chuyên nghiệp, sức cờ của anh vẫn rất đáng nể. Các ván đấu giữa chúng tôi diễn ra căng thẳng, thế trận giằng co từng nước một, không bên nào giành được lợi thế rõ rệt. Kết quả, phần lớn các ván đều hòa. Nhưng có lẽ điều thú vị hơn cả là cảnh lũ trẻ kéo lại vây quanh, đứng sau lưng chúng tôi để theo dõi. Bọn chúng thì thầm bàn tán, không khí trong phòng lúc ấy bỗng sôi động hẳn lên.
Tôi kết thúc buổi học bằng việc phân tích lại trận đấu vừa rồi giữa tôi và anh Hùng. Dù trình độ của lũ trẻ chưa đủ để hiểu hết chiều sâu của ván cờ, tôi vẫn cố tình chọn ván này. Ít nhất, tôi muốn chúng cảm nhận được sự khốc liệt của một trận đấu thực thụ nơi mà chỉ một sai lầm nhỏ cũng đủ để đánh mất thế trận. Chúng không cần hiểu hết, tôi biết. Nhưng tôi muốn gieo vào lòng chúng cảm giác rằng cờ vua không chỉ là trò chơi mà là nơi thể hiện trí tuệ, bản lĩnh và sự kiên nhẫn. Một ngày nào đó, khi chúng lớn lên, sẽ nhớ về buổi sáng hôm nay như một bước ngoặt nhỏ khiến chúng muốn cố gắng nhiều hơn. Không chỉ trong cờ vua mà trong bất cứ điều gì chúng ước mơ theo đuổi sau này.
Anh Hùng ra ngoài mua đồ ăn trưa cho hai người chúng tôi, còn tôi ngồi lại trong nhà văn hóa để trông chừng lũ nhỏ. Sau khi cất hết quân cờ và đồng hồ vào ngăn bàn, bọn trẻ ùa ra sân chơi trò “bóng ma”. Một vòng tròn chừng mười đứa vây quanh, đứa đứng giữa làm “ma” cố gắng cướp bóng trong lúc những đứa xung quanh chuyền qua lại. Luật chơi đơn giản, nhưng lũ trẻ vẫn náo nhiệt như khi đá bóng thật. Đứa bị bắt sẽ thế chỗ là “ma”, đứa đứng ngoài chờ sẽ nhanh chóng lao vào nếu có đứa mỏi chân xin ra. Tôi ngồi ở bậc cửa, mắt dõi theo từng nhịp chuyền bóng, có vài pha chạy hụt để bị vấp ngã. Chúng chơi suốt gần nửa tiếng rồi bắt đầu mệt dần vì cái nắng oi ả của buổi trưa. Lũ nhỏ kéo nhau vào uống, đứa nào cũng cởi trần, lau mồ hôi bằng áo. Chúng xếp hàng chờ tại bình nước đặt ở cửa. Cả bình lớn mà hết vèo chỉ sau vài lượt. Tôi chẳng đá phút nào nhưng cũng tháo áo ra để cảm thấy mình đang trò chơi. Ít nhất thì cũng góp phần giữ nhịp tinh thần cho chúng.
Bữa trưa, tôi và anh Hùng ăn cơm hộp. Suất cơm đơn giản: một quả trứng luộc, vài miếng thịt kho tàu đã nguội kèm theo túi nước canh rau cải. Anh bảo đã mua hẳn hai suất cho chắc, nhưng nhìn phần ăn trước mặt tôi vẫn nghĩ thế này làm sao đủ no cho một người lớn, huống chi là cho người luôn phải vận động như anh. Tôi chợt nhớ lại bài báo sáng nay. Hình ảnh một người công nhân đứng xếp hàng mua cơm hộp trong bộ quần áo dính đầy bụi, tóc tai bết lại vì mồ hôi, đi chân đất đứng giữa đám đông. Bài báo đặt tên Bữa trưa người lao động, chỉ ra sự chênh lệch giữa công sức bỏ ra và thu nhập nhận lại. Giờ thì tôi hiểu cảm giác đó rõ ràng hơn khi nhìn suất cơm trước mặt mình.
Tôi liếc sang anh Hùng. Anh đang ăn một cách ngon lành, không một lời than vãn. Dưới lớp áo thun trắng và chiếc mũ lưỡi trai kia là một con người bình dị, cách ngày lại chạy xe giao thực phẩm. Vậy mà vẫn đều đặn đứng lớp dạy cờ, vẫn nuôi giấc mơ trở thành một huấn luyện viên dạy cờ cho lũ trẻ. Nhìn anh như vậy, tôi thầm nghĩ có lẽ mình đã quá may mắn. Nếu không phải vì tài năng ra, có lẽ giờ tôi cũng như bao người bình thường khác. Đâu có thời gian để mơ mộng, để chọn lựa.
Bữa cơm bọn trẻ mang từ nhà đi, gói gọn trong những hộp cơm nhỏ nhắn trong balo. Bên trong những chiếc hộp nhiều màu sắc ấy là vô số món ăn giản dị mà bắt mắt: rau luộc, cà chua thái lát, trứng luộc bổ đôi, miếng đậu phụ rán vàng, khoai tây nghiền, bí đỏ hấp, đứa còn mang cả tép rang. Chúng mở hộp, ngó nghiêng, rồi... như một nghi thức quen thuộc, màn trao đổi bắt đầu.
“Tớ không ăn cà chua, đổi cho miếng trứng nhé.”
“Tớ xin miếng đậu, cho cậu thìa tép.”
Cứ thế mỗi đứa một lời, nhao nhao như cái chợ nhỏ. Chẳng mấy chốc, hộp cơm nào cũng thay đổi đôi chút nhưng điều quan trọng là khuôn mặt đứa nào cũng rạng rỡ. Dù có đứa được nhiều, đứa ít, tựu chung tất cả đều vui vẻ. Chúng đã cùng nhau tạo ra một bữa cơm đúng nghĩa. Chia sẻ, quan tâm và gần gũi như một gia đình nhỏ nương tựa vào nhau.
Lũ trẻ ngủ trưa trên sàn nhà trên chiếc chiếu trải thành một dải dài đều tăm tắp. Anh Hùng bê ra chiếc quạt công suất lớn, tiếng cánh quạt đều đều xua bớt cái nóng hầm hập của mùa hè. Tôi ngồi tựa lưng vào tường, mắt hướng ra phía cửa chính nơi những chiếc áo của lũ trẻ phơi trên lan can dài. Chúng có lẽ quên mất là mình không mặc áo trên người, hoặc có nhớ cũng mặc kệ, cứ ngủ một giấc cái đã.
Anh Hùng sau khi đi kiểm tra một vòng, quay lại ngồi xuống cạnh tôi. Lưng anh cũng tựa vào tường như tôi.
“Lũ trẻ vào giấc nhanh thật.” Anh cười. “Mình đây chắc phải trằn trọc một lúc lâu mới ngủ nổi.”
“Em cũng thế.” tôi đáp. “Giấc ngủ trưa với người lớn là một điều xa xỉ.”
Một lúc sau, tôi quay sang anh, hỏi:
“Buổi chiều nay bọn trẻ đi bơi ở chỗ cũ à?”
“À không.” Anh nói, giọng khẽ khàng như sợ đánh thức lũ trẻ. “Mình đã đặt chỗ ở bể bơi rồi. Hẳn nguyên một khu trống luôn.”
“Thật à? Em cứ nghĩ buổi chiều thì kiểu gì bể cũng đông người.”
“Nói là thành phố nhưng thực ra chỗ này chỉ như một huyện lỵ thôi.” Anh gãi đầu, nở một nụ cười trừ. “Bình thường đã vắng, hè này lại càng vắng hơn. Người dân thì đi du lịch, mấy đứa trẻ thì cũng dịp này lên Hà Nội chơi hết.”
“Nhưng em đâu có mang theo đồ bơi.”
“Không sao, anh có mang thừa một bộ. Cỡ tụi mình giống nhau, chắc là vừa thôi.”
“Vậy thì may quá,” tôi mỉm cười.
Anh im lặng một lát rồi chậm rãi nói:
“Thực ra, anh muốn cậu đi cùng lũ trẻ hôm nay… vì mai bố mẹ chúng lên đón rồi. Có thể nói chiều nay cũng là buổi chia tay của hai anh em mình.”
Tôi lặng đi một lát, mắt dõi theo gương mặt lũ nhỏ đang say ngủ. Mới quen chúng chưa tới ba ngày vậy mà giờ đã phải chuẩn bị nói lời tạm biệt. Nhanh đến mức tôi chưa kịp hỏi tên từng đứa.
Mùa hè năm sau, có thể chúng sẽ quay lại đây. Chạy nhảy, đá bóng, ngủ trưa trong căn nhà văn hóa cũ kỹ này. Nhưng tôi thì không. Tôi biết mình sẽ ở một nơi khác, không liên hệ gì đến nơi này. Tôi không buồn, chỉ là có một nỗi hụt hẫng chùng xuống trong lồng ngực.
Liệu sẽ có đứa nào trong bọn chúng còn nhớ tôi vào năm sau?
Bình luận
Chưa có bình luận