Trời đông mưa tầm tã. Dọc đường cái đi từ cổng thôn Vọng Nguyên, nước bùn nâu đỏ đọng thành từng vũng to như hố giếng. Vừa qua chạng vạng chưa bao lâu mà không khí im lìm chết chóc đã phủ lấy toàn bộ thôn xóm, tối âm sâm không có lấy một đốm đèn sáng nào. Nhà nào cũng đóng cửa cài then, tịnh không bóng người qua lại. Đêm đặc như bùn.
Trong tiếng mưa rơi đều lên mái hiên lợp lá tranh của những căn nhà ven đường, bỗng vẳng đến tiếng chân người đang bì bõm lội qua những hố nước. Bước chân càng ngày càng gần, bầy chó cỏ bị nhốt ngoài sân nghe được bèn hùa nhau sủa dữ. Đôi mắt lóe ánh xanh lục của chúng nó như đang ghim thẳng vào người mới tiến vào thôn kia, dàn đều trong đêm tối chẳng khác nào lửa ma trơi.
Tiếng guốc vừa đến chỗ cội gạo già tại đầu thôn thì bặt hẳn.
Chợt, trong đêm mưa tối mịt bùng lên mồi lửa ngọn lấy từ mớ bùi nhùi nén thành ống. Ánh lửa vàng leo lét chập chờn hắt lên gương mặt hội tụ đủ những nét tiêu biểu của một kẻ tiểu nhân bẻ bói ưa xét nét nọ, làm những rãnh nếp nhăn khắc khổ trở nên sâu hơn, kể cả biểu cảm cau có bực dọc cũng càng thêm đậm nét. Bờ môi mỏng tím tái bên dưới hàng ria mép lún phún đã sớm khô quắt lại thành từng mảng da lớn, che đi mấy kẽ nứt luôn chực tứa máu.
Gã đàn ông khum khum lòng bàn tay to, nhanh nhảu vo xái thuốc rồi kề sát vào ống bùi nhùi đặng lấy lửa. Bầu không khí ẩm ướt, tanh ngấy mùi đất bùn giờ lại quyện vào cả mùi thuốc khét nồng, khó ngửi đến lạ. Y liên tục rít liền mấy hơi dài, dùng đôi mắt hơi lim dim nhìn thôn xóm phía xa đang chìm nghỉm trong mưa đêm rả rích.
Cảnh vắng, tâm hồn chẳng mấy chốc đã trôi xuôi đến tận chốn đẩu đâu. Mẩu xái thuốc ngắn cũn cỡn đã bị lửa nuốt bằng sạch trong chớp mắt. Gã đàn ông khắc khổ kia nom chừng nghỉ ngơi cũng đã đủ, tiện tay quẳng mẩu xái chỉ còn độ mấy li xuống nền sình rồi lại đeo túi đứng lên, cất bước đi vào bên trong thôn.
Dường như ngay tức khắc, đốm tàn le lói kia đã bị mưa rỏ từ tàng lá thưa thớt làm cho tắt lịm.
***
Sớm ngày đông, vầng dương đã lên cao ba sào từ lâu nhưng vẫn khiến người ta có cảm giác trời còn chưa sáng hẳn. Sương móc đọng dày trên mấy khóm rau oằn rạp, trắng đến lóa mắt, buốt lạnh tê tay. Hơi ẩm lạnh trong không khí dường như càng đặc thêm do cơn mưa dai dẳng đêm qua, khiến ngoài đường thôn vắng hoe chẳng mấy bóng người, ngay cả dưới ruộng cũng chỉ thấy mỗi sóng nước bạc anh ánh cùng mấy con cá rô đồng thi thoảng đớp bóng quẫy đuôi.
Ấy thế mà ở căn nhà lụp sụp, bũm thũm nằm bên rìa thôn, người ra kẻ vào lại đang tấp nập không kém chợ thị mỗi lần họp phiên. Khắp cả thôn Vọng Nguyên đều biết chủ căn nhà ấy là ai, và giờ họ đang tập trung ở đấy thay phiên nhau mở lời chúc tụng, chè chén không ngừng, ăn nhậu bứ xứ.
Vọng Nguyên là một thôn có tiếng thuộc vào hàng nhất nhì của cả miền biên viễn phên giậu phía Tây. Nghe bảo do phong thủy tốt, chiếm trọn được hình, thế, lí, khí, nên đã sản sinh ra rất nhiều Nho sinh đủ khả năng xuất sĩ làm quan. Thôn cũng không ít lần nhận được sự hậu thưởng từ triều đình, tiếng lành đồn xa khắp. Vậy mà kì lạ thay, trong số các Nho sinh đỗ đạt, người đỗ cao nhất chỉ có thể vươn đến vị trí Bảng nhãn, chưa bao giờ xuất hiện vị trí Trạng nguyên.
Hẳn thôn lấy tên thành Vọng Nguyên cũng là vì lẽ ấy.
Vì cả thôn trọng chữ thánh hiền, nên con em các nhà khi có năng lực đều được cả thôn quyên tiền cho đi học, không lo bễ bãi. Tiền bạc đi trước thì mực thước nó mới theo được đằng sau. Ở thôn không có thầy giỏi thì đi sang thôn khác, làng khác đặng mưu cái con chữ cho hoạn lộ sau này. Truyền thống cứ thế mà đời đời tiếp nối. Các nhà ai cũng khuyến khích con trai đi học, khi nào không thể nhét nổi cái chữ vào đầu nữa thì mới để cho làm đồng áng giúp đỡ gia đình.
Trong thế hệ đương thời ở cái thôn Vọng Nguyên này, nào có ai không biết đến cái danh của ông nghè Quất. Lúc bé để chỏm, vì là con thứ nên người xung quanh cứ í ới kêu y là thằng Bảy Quất. Tục tằn xiết bao! Vừa thô vừa tục như chính cái số bần nông của những con người ì ạch nơi cái thôn già cỗi này vậy. Mãi đến khi Bảy Quất thi đỗ, trở thành ông nghè có thể thấu được cái lẽ nhiệm màu của ‘nhất dĩ quán chi’, người ta mới bắt đầu cải xưng thành thầy nghè Quất để thêm phần trang trọng.
Ngay đến cả cái tên cha mẹ đã đặt cho mình, thầy nghè Quất cũng lấy làm căm ghét. Mỗi lần nghe ai đó kêu tên, thầy lại thấy như có hàng trăm con mối đang ray rứt rằn rựt trong lỗ tai mình. Nhưng cũng đành gượng cười bỏ qua thôi vì cái hay cũng chẳng to bằng cái thực: sự thực rằng thầy Quất xuất thân từ một gia đình bần nông ở một thôn nhỏ nghèo nàn.
Nào đâu ai biết, trong bụng thầy nghè Quất luôn trăn trở, bợn cợn cái suy nghĩ rằng nếu nén bạc thực sự có thể đâm toạc tờ giấy thì y sẽ không tiếc gì để thay hộ tịch, tráo xuất thân, biến mình trở thành con cháu của một gia đình thư hương nào đó để cho xứng với cái danh môn sinh cửa Trình. Đời mà! Phú nhi vô kiêu thì còn dễ chứ trên đời đâu có dư dả cái loại bần nhi vô oán. Bao lâu nay nhà ông bá hộ Đạt vì chút tiếng thơm với đời mà chấp nhận chu cấp cho thầy nghè không ít tiền để ăn học ở huyện, nếu phải chu cấp thêm chuyện này nữa thì cũng đã mất mát đi đâu? Há tiếng thơm chẳng càng thơm hơn? Tốt danh chẳng hơn lành áo đấy chửa!
Nhẽ thường, người mang suy nghĩ thoát li như nghè Quất chẳng có lí do gì để quay lại cái chốn quê mùa từng là nơi chôn nhau cắt rốn này cả. Bởi từ khi rời thôn lên huyện để theo đuổi cái chữ công danh quan lộc, thầy nghè Quất đã bị chốn phồn hoa kia quyến rũ nhiều lắm. Nôm na thì cứ phải gọi là đẹp vàng son, ngon mật mỡ. Chứ mà văn vẻ như sách, ta lại có câu: Lí nhân vi mỹ, trạch bất xử nhân, yên đắc trí?
Trách sao được thầy nghè! Ở đấy có quá nhiều thứ mới lạ, hay hớm, tiện nghi; người gia thế tiền tài dư dật đông đúc nhiều khôn kể. So với những thứ hào hoa đó, cái thôn Vọng Nguyên nghèo rách này có thứ gì đáng để y quyến luyến đâu? Vả xưa nay thuồng luồng chẳng dung ở cạn, một người bụng đầy chữ như thầy nghè đây há lại cam lòng chết dí nơi chó ăn đá gà ăn sỏi này hay sao? Cơm treo, mèo nhịn đói!
Ấy thế mà hôm nay khi tận mắt chứng kiến những ánh nhìn ngưỡng mộ, những động tác cung kính của đám dân thôn già trẻ gái trai dành cho mình, nghè Quất thấy bản thân như đã hoàn toàn thoát khỏi cái hố phèn tanh nơi thôn nghèo lạc hậu quê mùa, trở thành một người dân chốn thị thành thực thụ. Y thấy mình quân tử chẳng thua gì đám Mạnh, Nhiễm trong kinh sách nhà Nho. Ngay cả những người ngày xưa hay khinh khi, ca kiết thầy nghè như ông trưởng thôn, ông bá hộ nay cũng đã chuyển thành vẻ kính trọng, khúm núm hẳn.
Trông thấy cảnh ‘thái lai’ mãn nhãn này, nghè Quất đắc ý đến mức chòm ria mép lún phún cùng hàng lông mày lưa thưa giần giật hết cả lên, không cách nào kiềm chế được. Nghển cổ lên trông đám người mù chữ kia, y thấy công lao mình đã bỏ ra bao lâu nay thật bõ bèn. Ôi cảm giác ưu việt mà y đang trải nếm này không bút mực hay văn bài nào có thể tả xiết. Y như con hạc lẻ loi giữa bầy gà thấp kém, tận hưởng sự ngưỡng mộ cùng kính trọng đủ khiến cho bản thân y ngẩng đầu cao với đời mãi.
“Bòn nơi khố rách, đãi nơi quần hồng” đã là chuyện thường tình, kinh thiên địa nghĩa ở cái thôn trọng lễ lạt, trọng sĩ, Nho này. Cảnh chè chén lúc nào cũng rình rang tốn kém. Chẳng riêng gì mấy bận cúng đình làng, ngay cả việc thôn có vinh hạnh sinh ra bao nhiêu ông tú, ông nghè, ông cử sau một bận thi cử cũng đã đủ cấu thành lí do để người ta nảy ra suy nghĩ bỏ bê công việc để chè chén thâu đêm suốt sáng, thuận lí hóa kiếp cho mấy con tam sinh lục cầm vốn đang nhởn nhơ ăn thức ăn thừa ở trong chuồng, ngoài bãi thả.
Trái ngược với thường ngày, mấy khi ở chốn quỳnh môn, thầy nghè Quất luôn dạy học trò phải cần kiệm liêm khiết, cố giữ cho được cái đức nhân như các bậc thánh hiền được ghi chép lại trong sử sách. Mỗi khi giảng bài, thầy nghè luôn để câu “Sĩ nhi hoài cư, bất túc dĩ vi sĩ hĩ.” ra đằng cửa miệng, như thể bản thân thầy đã thực tâm làm đúng theo cái răn dạy của thánh hiền.
Lại chả thế! Thời thế nay, muốn làm lớn thì phải làm láo. Bấy nhiêu năm sách đèn kham lao, y tự hào mấy chữ trong kinh đều đã cơm trôi cháo chảy, dù có ngủ mớ cũng có thể đọc làu làu. Y vẫn còn nhớ như in cái lúc đi thi văn bài đã múa bút đem chuyện giản tiện lễ tiết phung phí viết vào bài thi, lí lẽ hùng hồn đanh thép đến độ nào. Và cũng nhờ thế mà cái chức thầy nghè mới rớt được tới đầu y thay vì gã khác.
Khốn thay xưa nay nói dễ làm khó, khua ba tấc lưỡi há lại chẳng đơn giản hơn nhiều so với động tay chân ư? Nào có ai sống mà chịu bạc đãi chính mình, tài quyền song hữu ấm thân chẳng nhận lại cam lòng phơi thây đi hành xác để giữ lấy những thứ khuôn lề vô hình vô thức. Đến thánh hiền là bậc kiệt xuất ở đời còn phải thốt ra câu: Thùy năng chấp nhiệt, thệ bất dĩ trạc. Cần kiệm chi đâu? Rượu thịt chè chén thâu đêm suốt sáng mới là cuộc sống mà tầng lớp quan quí thượng lưu như thầy nghè đây xứng đáng nhận được!
Bởi "Nhân tất tự vũ, nhiên hậu nhân vũ chi!"
Cứ mỗi sáng mở sách ra, thầy nghè lại bảo học trò phải bắt chước cái cung cách của y năm xưa, đọc đi đọc lại những câu chữ tối nghĩa kia đến khi thuộc nằm lòng, chỉ cần mở miệng ra là có thể tuôn chữ như nước xối đầu nguồn thượng. Còn mà hiểu lấy ư? Lời thánh hiền uyên thâm cao vợi thế ấy, đám học trò hèn này chẳng hiểu được cũng chỉ là sự thường mà thôi. Ngay cả thầy đây còn chẳng dám tự nhận hiểu hết!
Sự học, suy cho cùng cũng chỉ là vì kiếm cho mình cái chức quan để nhàn thây ấm bụng mà thôi. Sĩ mà! Thà đói nằm co chứ ai lại ăn no vác nặng!
***
CHÚ THÍCH
- Phú nhi vô kiêu, bần nhi vô oán: Giàu có mà không kiêu căng, nghèo mà không oán thán. (Trích từ Luận Ngữ)
- Lí nhân vi mỹ, trạch bất xử nhân, yên đắc trí?: Thôn làng tốt đẹp mà ta không ở, sao có thể gọi là người khôn? (Trích từ Luận Ngữ)
- Sĩ nhi hoài cư, bất túc dĩ vi sĩ hĩ: Người suốt ngày chỉ lo nghĩ cách hưởng an nhàn sung túc thì không được coi là kẻ sĩ đích thực. (Trích từ Luận Ngữ)
- Thùy năng chấp nhiệt, thệ bất dĩ trạc: Ai có thể cầm được vật nóng mà chẳng đem nước mát rửa? (Trích từ Mạnh Tử)
- Nhân tất tự vũ, nhiên hậu nhân vũ chi: Người nào tự coi khinh mình thì tất cũng sẽ bị người khác coi khinh. (Trích từ Mạnh Tử)
Bình luận
Chưa có bình luận