Chương 71: Thơ Chửi Gà (02)



“Hoành Sóc nói hôm nay Húc có phúc, xem ra là đúng rồi.” Hoài Chương cẩn thận đặt chén trà xuống sập, trả lời. 


Thuỵ Khuê nghe thế thì hếch cằm đầy kiêu ngạo. Thuỵ Khuê xưa nay vốn lắm mưu nhiều kế, lấy lòng người lớn không phải chuyện khó. Nhưng khiến phụ vương chịu từ bỏ thứ yêu thích, “cơ cấu” được bộ chén gốm về dưới trướng thì đúng là chuyện phi thường. Gốm càng lâu đời, càng phải được bảo dưỡng và chăm sóc cẩn thận. Nhìn cách Thuỵ Khuê đối xử với bộ chén pha trà và cái chén hoa sen trong góc, tôi thầm thở phào. Đây cũng là người biết nghề.


“Húc có chút quà mọn, mong Thuỵ Khuê không chê.” 


Hoài Chương đưa túi quà cho Thuỵ Khuê. Tôi nhận ra thứ này, là một món đặc sản địa phương, không đắt, nhưng quý ở tấm lòng. Quan trọng hơn, món quà này hợp với khẩu vị của Thuỵ Khuê. 


Tôi đoán không sai, Thuỵ Khuê hẳn cũng nhận ra những hoa văn đặc trưng của loại lụa này nên không hề khách sáo, quà đến tay là lập tức nhận luôn, miệng xinh không ngừng nói lời ca tụng, dường như đã quên béng chuyện chúng tôi tự ý xem xét lúc nãy.


Hoặc không.


Ở góc Hoài Chương không nhìn thấy, tôi quan sát rất rõ ràng, Thuỵ Khuê đang dựng thẳng mũi chân, cố gắng đá một mẩu giấy chưa bị phát hiện vào trong gầm.


“...”


Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời.


“Việc thứ nhất đã xong, việc thứ hai sẽ tốn thời gian hơn một chút…”


“Nếu tốn thời gian thì cứ để sang ngày khác ạ. Ngày rộng tháng dài, vội gì một hôm…”


Hoài Chương còn chưa kịp dứt lời, Thuỵ Khuê đã nói ngay. Tôi bật cười. Bản năng của Thuỵ Khuê mạnh thật. Thuỵ Khuê quắc mắt, tôi mím môi quay đi. Thôi, không trêu Thuỵ Khuê nữa. 


“Thuỵ Khuê nói không sai. Học tập là chuyện cả đời, đâu cần thiết phải kiểm tra ngay. Đợi cậu xong việc rồi kiểm tra cũng không muộn.”


Tôi nói, cố gắng tranh thủ cho Thuỵ Khuê một chút thời gian. Sắp tới Hoài Chương bận việc, khả năng cao sẽ ném chuyện này ra sau đầu. Thuỵ Khuê sẽ có cơ hội bổ túc kiến thức, đến lúc kiểm tra sẽ bớt lúng túng. Con thứ Hiền vương mù chữ, chuyện này dù tôi muốn giúp đỡ cũng đành lực bất tòng tâm.


Thuỵ Khuê nghe thế thì gật đầu liên tục, chỉ hận không thể lập tức tiến lên tiễn khách. Hoài Chương, tuy thế, lại không để hai anh em tôi toại nguyện. Hoài Chương khoát tay, nói thẳng: “Ngày dài tháng rộng không bằng chọn ngày phù hợp. Chọn luôn hôm nay đi.”


“...”


Thuỵ Khuê sững người, nụ cười trên môi biến mất nhanh như một trận mưa bóng mây mùa hạ. Hoài Chương đã nói tới mức này rồi, tôi cũng không tiện nhiều lời, chỉ đành đóng vai quan khách, xem Thuỵ Khuê phản ứng thế nào. Không ngoài dự đoán, sau vài giây bất ngờ ban đầu, khoé môi Thuỵ Khuê đã lại nhếch lên. Thuỵ Khuê cạnh khoé: “Anh cứ đùa.”


“Quân vô hí ngôn*”


*người quân tử không nói hai lời


“...”


Ý cười hiện rõ trong mắt Hoài Chương. Hoài Chương xem chừng là rất thích trêu chọc Thuỵ Khuê. Ai có thể cưỡng lại ánh mắt ươn ướt của con mèo nhỏ bị chọc đến xù lông cơ chứ? Tôi không thể. 


Thuỵ Khuê và Hoài Chương có mối quan hệ tốt, âu cũng là chuyện hay. Chúng tôi sẽ không ở mãi châu Lạng, Quan gia sớm muộn cũng sẽ triệu Thuỵ Khuê về thành Tống Bình, thay tôi hoàn thành trách nhiệm con tin. Thuỵ Khuê ở châu Lạng, được phụ mẫu bảo bọc, quen thói muốn gió được gió, muốn mưa được mưa nên có phần kiêu ngạo, không đặt kẻ khác vào mắt. Chỗ khác không nói, thành Tống Bình long ngư lẫn lộn, nếu không có một người thân tín bên cạnh uốn nắn, tôi thật không an tâm. May mắn thay, Hoài Chương không phản cảm với nhiệm vụ này.


“Thôi được rồi, Cửu Nhật Lang Trung muốn kiểm tra gì ạ?”


Sau cùng, Thuỵ Khuê vẫn là người thỏa hiệp trước. Em sai người hầu vào dọn dẹp, lại quay về bàn lấy giấy bút đợi sẵn. Hoài Chương bật cười: “Không khó, tuỳ tiện viết vài câu là được.”


“...”


Thuỵ Khuê gác bút lên giá, nói: “Cửu Nhật Lang Trung, anh cho một đề bài rõ ràng đi. Nếu không em sẽ không viết đâu.”


Thông minh đấy. Không đề, phạm vi quá rộng, muốn viết tốt, phải xem bút lực của người viết. Thuỵ Khuê chữ được chữ không, yêu cầu này đã vượt quá khả năng hiện tại. Hoài Chương cũng không làm khó, trả lời lại ngay: “Lấy chủ đề động vật đi. Đủ gần gũi đúng không?”


Thuỵ Khuê gật đầu: “Cái này dễ viết.”


“...”


Nói trước bước không qua. Không phải tôi ác ý, khả năng của Thuỵ Khuê có hạn, mấy chuyện văn chương, vẫn là khiêm tốn tốt hơn. Tôi liếc nhìn Hoài Chương. Có trạng nguyên ở đây, hai anh em tôi không xứng được đề tên.



Không tính chuyện khác, chỉ riêng việc có thể làm người ta đi từ bất ngờ này đến ngạc nhiên khác, Thuỵ Khuê đã xứng đáng với hai chữ “bậc thầy”. Tài không đợi tuổi. Chừng hai khắc sau, Thuỵ Khuê đưa lại cho Hoài Chương một bài thơ ngắn. Tôi ngó qua. Là thể thơ lục bát dân dã. Thuỵ Khuê đúng là biết mình biết ta, so với thể thơ tứ ngôn luật lệ rườm rà, thơ lục bát thật sự là mảnh đất màu mỡ để tuỳ sức sáng tạo.


Có điều, trông sắc mặt Thuỵ Khuê, bài thơ này có vẻ không ổn. Hoài Chương không nói gì, trực tiếp đưa tờ giấy sang chỗ tôi. Tôi đọc vài chữ đầu tiên, sững người.


“...”


Không hổ là Thuỵ Khuê, cái gì cũng dám nghĩ, cái gì cũng dám viết. Người ta viết thơ tả hạc thanh thoát, tả cá ung dung, Thuỵ Khuê thì hay rồi, viết hẳn một bài thơ chửi gà. 


Khả năng thần sầu này, muốn kiếm một giải thưởng trong hội thơ sắp tới, trừ phi giám khảo bị mù. Vị giám khảo nào đó ngồi cạnh không hề bị tình riêng ảnh hưởng, thậm chí còn sửa ngược lại Thuỵ Khuê: “Chỗ này, từ “thơ”, em viết thiếu nét ngang rồi.”


Tôi nhìn lại tờ giấy trong tay. Đúng thật. Chữ Thuỵ Khuê một lời khó nói hết, tôi không nhìn ra chữ thơ thiếu mất nét sổ. Trông cái chữ gà bới này, tôi hoàn toàn có cơ sở để nghi ngờ - Thuỵ Khuê cố tình viết xấu để che giấu việc mù chữ. Khi giới hạn bị hạ xuống thấp nhất, người ta sẽ tung hô những điều cơ bản. 


“Đâu ạ?” 


Thuỵ Khuê nghe thế thì nhích lại, tờ giấy trên tay tôi bị lẫng đi. Thuỵ Khuê giơ tờ giấy đã ráo mực lên trước ánh nến, xem xét cẩn thận rồi nói: “Đúng rồi này. Đúng là thiếu một nét ngang thật. Để em sửa.”


Thuỵ Khuê nói xong thì lấy bút, tuỳ tiện gạch thêm một nét.


“...”


Thế này thì còn lâu Thuỵ Khuê mới thoát được án phạt của phụ vương. Tôi không nhịn được nói mấy câu trách móc. Thuỵ Khuê cự lại ngay: “Anh, anh thế này rất không ổn nhé. Đồng minh ai đâm sau lưng bao giờ.”


“...”


Ai bảo chúng ta là đồng minh đấy? Tôi sẽ không về cùng phe với một đứa viết chữ còn không thành thân. Hoài Chương hừm một tiếng, cắt ngang: “Theo em, thế nào mới là đồng minh tốt.”


Thuỵ Khuê hếch cằm: “Dĩ nhiên là trong thời gian liên minh không có gì giấu nhau rồi. Phải có niềm tin mới làm việc được chứ?”


“Thế sau đó thì sao?” 


Đến lúc kịp phản ứng, tôi mới nhận ra bản thân vừa hỏi một câu ngu ngốc. Đồng minh, suy cho cùng, cũng chỉ là cách gọi hoa mỹ của một nhóm có chung lợi ích. Lợi ích không còn, tất nhiên là không cần nể mặt, không đâm sau lưng là may. Mấy chuyện thỏ chết giết chó săn xưa nay đâu hiếm.


Thuỵ Khuê hừ một tiếng, nghiễm nhiên không muốn trả lời câu hỏi này. Lại nhìn sang ánh mắt có phần tò mò của Hoài Chương, Thuỵ Khuê mới miễn cưỡng nói tiếp: “Thì trông vào ăn ở thôi ạ. Nếu gặp đồng đội tốt thì không sao, còn rủi gặp bọn không ra gì thì coi như ông trời không độ vậy…”


“Nếu là em, em sẽ làm gì?”


Thuỵ Khuê ra chiều suy nghĩ: “Nếu là em… Tốt nhất là không tham gia liên minh gì cả. Một mình một đường là an toàn nhất.”


Hoài Chương bật cười: “Ba người thợ da thối còn hơn một ông Gia Cát Lượng, nhiều người sẽ có nhiều ý tưởng hơn.”


Tôi nhìn rõ một tia sáng vụt qua mắt Thuỵ Khuê. Trong lúc tôi chưa kịp phản ứng, Thuỵ Khuê đã gấp tờ giấy viết thơ, nhét vào trong tay áo, nói thêm: “Cảm ơn ý kiến của anh. Bài thơ này em sẽ đưa Hữu Nghĩa sửa hộ.”


“...”


Tôi chưa tính đến trường hợp này. 


“Thơ ca thế này, làm sao có thể lọt vào nhóm ba người đứng đầu…” 


Hoài Chương một câu vạch trần sự thật tôi đang trốn tránh. Nhóm ba người đứng đầu đã là gì, với cái kiểu viết ăn chơi hưởng lạc “gà luộc nhậu kèm rượu mơ, cuộc sống hạnh phúc nên thơ trữ tình”, bài thơ này kiểu gì cũng bị xếp xuống sau cùng. Không cần nói tiếp, tôi cũng có thể tưởng tượng được sắc mặt của phụ vương. 


“Hai anh chẳng có chút sáng tạo nào. Nghệ thuật sao có thể bị mấy điều luật khô khan giới hạn. Người ta không đánh giá cao bài thơ này thì tức là tâm hồn họ không đồng điệu với em. Đời người như áng phù vân, thịnh suy, thành bại, lẽ thường khó tránh. Đứng đầu hay đứng cuối thì cũng đều là đứng số một, sao phải nghĩ nhiều.”


“...”


Hay cho câu đứng đầu đứng cuối đều là số một. Ngụy biện đến hợp tình hợp lý thế này, cũng chỉ có Thuỵ Khuê làm được. Chữ nghĩa Hoài Chương đã dạy, không dùng theo kiểu này thì vẫn còn theo kiểu khác. Âu cũng là một sự an ủi nhỏ.


Hoài Chương đột nhiên hỏi: “Câu “đời người như áng phù vân, thịnh suy, thành bại, lẽ thường khó tránh”, nghe ở đâu thế?”


“...”


Không hổ là văn nhân, sự chú ý cũng khác hẳn người thường. Thuỵ Khuê nghe thế thì hỏi lại: “Em thấy trong sách của một người bạn. Cậu ta ghi chú bên cạnh một đoạn chú giải về Nghệ Hoàng*. Câu này có gì không ổn ạ?”


*ý chỉ vua Trần Nghệ Tông


Hoài Chương lắc đầu, hỏi thêm: “Em có biết câu này xuất phát từ đâu không?”


Lần này đến lượt Thuỵ Khuê lắc đầu: “Em không rõ, chỉ thấy hay nên bất giác nhớ thôi. Câu này gắn liền với điển tích gì ạ?”


“Dĩ nhiên là có. Em đã nghe đến hát bội bao giờ chưa?” 


Tôi ở thành Tống Bình nhiều năm còn chưa nghe đến hai từ này bao giờ, Thuỵ Khuê lớn lên ở châu Lạng, dĩ nhiên càng không biết. Thuỵ Khuê lắc đầu, thành thật trả lời: “Chưa nghe bao giờ.”


“Đổi một cách gọi khác, tuồng. Em nghe bao giờ chưa?”


Hát bội tôi không rõ, tuồng thì đã từng nghe qua. Nghe nói, nghệ thuật này xuất phát từ phương Bắc, qua nhiều năm đã có sự thay đổi và phát triển cho phù hợp với văn hoá nước Nam. Có điều, thành Tống Bình ở đất kinh Bắc, người dân đa phần thích xem rối nước, nghe hát ả đào và hát chèo, không chuộng loại hình này. 


Hoài Chương nói tiếp: “Hát bội do một sĩ phu họ Đào phát triển, thường xuất hiện trong các lễ hội lớn. Người bạn đó của em, thân phận không thấp đâu nhỉ? Là cậu hai Tâm à?”


“...”


Thần thám lại đến rồi. Thuỵ Khuê nghe thế thì hỏi thêm: “Nổi tiếng như thế sao em lại không biết nhỉ? Anh, anh ở thành Tống Bình nhiều năm, đã từng xem qua chưa?”


Câu sau là hỏi tôi. Tôi lắc đầu, trả lời: “Chưa từng. Người Bắc Hà chuộng hát xẩm và hát chèo hơn.”


Thấy không tìm hiểu được gì từ tôi, Thuỵ Khuê quay sang mè nheo Hoài Chương, nằng nặc muốn nghe kể về hát bội. Hoài Chương bị Thuỵ Khuê quấy lấy đến phiền, đành phải kể lại chi tiết.


“Hát bội vốn bị ảnh hưởng từ Kinh kịch, sau này đã được thay đổi để phù hợp với phong tục nước Nam. Hát bội không quá phổ biến ở Bắc Hà, người nghe thường ở vùng Hoan Châu và Thuận Hoá. Nội dung trình diễn rất đa dạng, thường nói về lòng trung quân ái quốc, trừ gian diệt bạo. Có một số vở nổi tiếng như “Hồ Nguyệt Cô hoá cáo” hay “Sơn Hậu”. Câu vừa rồi em nói là từ vở “Sơn Hậu”.”


Không hổ là trạng nguyên trẻ tuổi nhất, cái gì cũng biết. Sự chú ý của Thuỵ Khuê nhanh chóng bị mấy địa danh xa lạ thu hút. Thuỵ Khuê dồn dập hỏi: “Ở tận Thuận Hoá xa xôi mà anh cũng biết á? Anh đến đấy bao giờ chưa? Ở đấy có gì hay không?”


Hoài Chương lắc đầu, trả lời: “Học đạo Nho, làm quan phụ mẫu của nhân dân, dĩ nhiên phải nghe nhiều nhìn nhiều. Mấy năm nay Húc bận chuyện đèn sách, vẫn chưa có cơ hội thăm thú nhiều.”


“Ồ…” Thuỵ Khuê nói, có phần tiếc nuối: “Em tưởng anh biết gì hay ho cơ.”


“Hay ho thì không chắc. Nhưng có một thứ Thuỵ Khuê chắc chắn sẽ thích. Người ở vùng đó nói chuyện không giống chúng ta, họ có phương ngữ riêng.”


Phương ngữ, hay còn gọi là tiếng địa phương, là tiếng nói phổ biến ở một vùng. Tôi đã có dịp gặp một ông quan đưa con trai ra thành Tống Bình báo cáo công tác, khẩu âm của vị này, thật không dám khen ngợi. Rõ ràng đều nói cùng một ngôn ngữ, tôi như vịt nghe sấm, mãi mà chẳng hiểu ông ta nói gì. Sau cùng, phải nhờ người nhắc nhở, ông ta mới chuyển về tiếng phổ thông, chúng tôi mới có thể miễn cưỡng giao tiếp.

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout