Hoài Chương không biết bận chuyện gì, việc dạy dỗ Thuỵ Khuê như quả bóng, đá qua đá lại một hồi, cuối cùng lại về tay tôi. Cũng may, Hoài Chương không đến nỗi ôm con bỏ chợ, tôi chỉ cần phụ trách phần việc ban đầu, mấy chuyện văn thơ gì đó, tôi không cần nhúng tay. Nói thật, dù có muốn, tôi cũng chẳng thể dạy cho Thuỵ Khuê chữ nào, học tập chưa bao giờ là thế mạnh của tôi.
Lần này, tôi được một sự an ủi nho nhỏ. Thuỵ Khuê không biết kiếm đâu ra động lực, tập luyện vô cùng nghiêm túc. Mấy lần tôi đến kiểm tra, Thuỵ Khuê luôn giữ thái độ hợp tác, đến nỗi mấy lời soạn sẵn như “có công mài sắt có ngày nên kim” hoàn toàn không có đất dụng võ.
Tôi sống ở thành Tống Bình nhiều năm, loại người nào cũng từng tiếp xúc, chỉ là chưa có cơ hội gặp qua người có suy nghĩ kỳ lạ như Thuỵ Khuê. Chẳng biết ai xui ai khiến, Thuỵ Khuê gọi con ngựa là con la cỡ đại, và việc cưỡi ngựa cũng như việc cưỡi một con la khổng lồ.
Thuỵ Khuê lý sự: “Đều là sinh vật bốn chân, di chuyển hơi chòng chành một chút, tập luyện nhiều chút thì sẽ ổn.”
“...”
Tôi tạm thời chưa tìm ra câu ứng đối thích hợp, chỉ đành đứng im nhìn Thuỵ Khuê tự tung tự tác. Mã phu đã chọn cho Thuỵ Khuê con ngựa lành tính nhất, tôi không cần lo lắng về chuyện ngựa điên sẽ làm Thuỵ Khuê bị thương. Ông trời cũng rộng lượng mở cửa sau, sau mấy ngày lăn lội ở trường đua, dù động tác vẫn còn nhiều trúc trắc, Thuỵ Khuê đã có thể tự lên ngựa.
Việc cưỡi ngựa khó một thì việc bắn tên khó mười, mới qua vài ngày, tôi đã rạc cả người. Thuỵ Khuê cứ liên tiếp giương cung, tôi ở bên cạnh liên tục thở dài. Từ sáng tới trưa, Thuỵ Khuê không bắn trúng phát nào. Khi sửa dáng đứng cho Thuỵ Khuê, tôi lập tức nhận ra vấn đề. Thuỵ Khuê giương cung tuy cũng ra hình ra dáng, nhưng tay lại thiếu lực, trụ cũng không vững.
Tôi ra hiệu cho Thuỵ Khuê dừng lại, yêu cầu Thuỵ Khuê chuyển sang các bài tập tăng lực tay và trọng lực cơ thể. Trọng tâm không chắc, đừng nói đến việc bắn trúng đích, giương được cung đã là một vấn đề lớn. Dục tốc bất đạt. Trong vài ngày, tôi không mong Thuỵ Khuê bắn trúng đích, kéo căng được cung tên đã là điều đáng khen. Cái gì cũng phải từ từ.
Tôi giao bài xong thì rời đi, chiều muộn mới quay lại kiểm tra. Vốn tưởng Thuỵ Khuê sẽ nóng giận rồi bỏ cuộc, nào ngờ, mấy ngày sau đó, Thuỵ Khuê đều ở lì trên sân tập bắn, gà lên chuồng vẫn không chịu về ăn cơm. Mẹ ở nhà đợi lâu đến bực mình, người chịu khổ cuối cùng lại là tôi. Cứ đến giờ Dậu, tôi sẽ ra lệnh cho người hầu dập đuốc. Không có ánh sáng, Thuỵ Khuê có muốn cũng không thể tập thêm.
Mặt trời đã khuất sau những rặng tre, sân bắn vẫn đèn đuốc sáng trưng. Thuỵ Khuê vẫn đang chăm chỉ tập luyện. Hôm nay mẹ vắng nhà, tôi có thể châm trước, cho Thuỵ Khuê thêm một ít thời gian. Tôi đứng quan sát một lúc, dặn người hầu giữ lửa đến giờ Tuất rồi mới rời đi.
Lần học này, Thuỵ Khuê đã nghiêm túc hơn hẳn những lần trước. Giương cung từ sáng đến chiều vẫn chưa trúng đích, Thuỵ Khuê cũng không nổi giận, chỉ lẩm bẩm vài câu rồi tiếp tục luyện tập. Tôi hiểu cảm giác này. Khi đã chú tâm vào việc mà kết quả không được như ý, tôi sẽ không quản thời gian, làm đi làm lại cho đến khi thành công mới thôi. Khi mới học bắn cung, cứ sau một lần thất bại là một lần tôi tự nhủ “thêm một lần nữa thôi”, hai tay không ngừng nghỉ, tiếp tục giương cung ra bắn, chẳng để ý đến xung quanh. Đến khi tỉnh ra, trời đã tối om, cả trường bắn chỉ còn tôi và đám tên đang chen chúc ở hồng tâm làm bạn.
Trống canh vừa báo hiệu giờ Tuất, người hầu theo lệnh tôi đã lập tức dập đuốc. Thuỵ Khuê buông cung trở về nhà. Bữa tối vẫn luôn được hâm nóng, chờ Thuỵ Khuê trở về. Trong lúc Thuỵ Khuê ăn cơm, tôi tranh thủ ra ngoài tìm Hoài Chương. Mấy hôm nay Hoài Chương bận việc, chúng tôi mang tiếng ở cùng viện mà còn chưa chạm mặt lần nào.
Vừa ra đến cửa, tôi gặp ngay Hoài Chương bước vào, hai tay lệ khệ quà các. Hỏi ra mới biết, mấy hôm rồi, để hoàn thành nhiệm vụ phụ thân giao phó, Hoài Chương buộc phải gạt việc dạy học sang một bên. Làm thầy mà không dạy, đây là cái lỗi lớn. Hôm nay việc đã xong xuôi, Hoài Chương đến nói lời xin lỗi.
Buổi tối, ngoại nam không được vào hậu viện. Cũng may, Hoài Chương gặp tôi. Có tôi đi cùng, mấy người canh cửa cũng không dám làm khó dễ, đi bộ chừng nửa khắc thì đã đến nơi. Tôi sai người vào thông báo thì mới nhận tin, Thuỵ Khuê mới dùng xong bữa tối, đang trên đường về phòng. Tôi và Hoài Chương chỉ đành chuyển hướng, rẽ sang viện nhỏ gần đó.
Trong phòng thắp nến sáng trưng, Thuỵ Khuê đang ngồi vắt vẻo trên sập, áo giao lĩnh cài hờ, miệng ngân nga một giai điệu không tên, xung quanh là la liệt giấy bút. Thuỵ Khuê thấy chúng tôi đến thì cuống cuồng đứng dậy thu dọn giấy bút. Sau khi nhét hết những tờ giấy chi chít mực đen vào một bên, Thuỵ Khuê mới đứng dậy, mời chúng tôi vào phòng, bản thân thì chạy ra ngoài, đích thân đốc thúc người hầu pha trà.
Nhìn bóng Thuỵ Khuê lăng xăng bên ngoài, tôi bật cười: “Hoài Chương hôm nay có lộc rồi.”
“Lời này là ý gì?”
Tôi chỉ vào một cái ly rỗng chạm khắc hoạ tiết hoa sen cầu kỳ bị vứt chỏng trơ trên sập, nói thêm: “Thuỵ Khuê đang pha trà sen mời cậu đấy.”
Thuỵ Khuê thích sen. Hoạ tiết trang trí rồi quần áo, đâu đâu cũng là hình hoa sen. Thành Tống Bình ở đồng bằng rộng lớn, khí hậu mát mẻ, thích hợp trồng sen. Mỗi độ chính hạ, cứ hễ mở cửa nhìn ra vườn là tôi sẽ cảm nhận được hương sen ngập tràn không gian. Phủ Hiền vương ở thành Tống Bình có một hồ sen lớn, mỗi lần gửi thư về nhà là một lần tôi gửi kèm một gói hạt sen tươi và tâm sen để Thuỵ Khuê pha trà. Năm lá thư gửi đi thì bốn lá nhắc chuyện hạt sen. Có lần Thuỵ Khuê đòi gấp quá, thời tiết lại không ủng hộ, tôi đành phải vác mặt mo sang nhờ vả vài người bạn tốt mới có quà gửi về.
Rõ ràng không chịu được đắng, Thuỵ Khuê lại khoái món trà tâm sen vô cùng. Tâm sen quý giá, phải là khách quý, Thuỵ Khuê mới pha trà tâm sen mời thưởng thức.
Hoài Chương nghe thế thì gật đầu: “Thuỵ Khuê có lòng rồi.”
Tôi không đáp, chỉ đưa mắt nhìn quanh phòng. Phòng này ngày trước là của tôi, sau này, tuổi tác gia tăng, lại thêm chuyện bị giữ lại thành Tống Bình, tôi đã chuyển sang một căn phòng khác. Bao năm cô quạnh, căn phòng cuối cùng cũng có hơi người. Bày trí trong phòng gần như không đổi, chỉ thêm một vài đồ chơi nhỏ nằm rải rác các góc.
Thuỵ Khuê không gọn gàng lắm. Giấy tờ vứt lung tung, ở góc sập còn có một chiếc tất trắng vắt vẻo, một góc khác là một quyển sách úp ngược. Tôi ngó qua, là một quyển tiểu thuyết chương hồi. Thuỵ Khuê hẳn đang nằm vắt chân đọc truyện, nghe người hầu báo tôi và Hoài Chương đến thăm mới vội vàng đứng dậy, vừa dọn đốn lộn xộn trong phòng, vừa tranh thủ sửa sang trang phục. Tôi nhặt một giấy bị Thuỵ Khuê vo tròn, tuỳ tiện ném dưới đất lên, vuốt phẳng những nếp nhăn, khó khăn lắm mới đọc được những gì Thuỵ Khuê viết. Hoài Chương bên cạnh cũng kiếm được một mẩu giấy tương tự.
“Thuỵ Khuê viết có tiến bộ đấy chứ?”
Tôi là phường sùng võ ghét văn, chữ nghĩa chỉ cần ra hình ra dạng, với tôi đều là chữ tốt. Hoài Chương nghe thế thì lắc đầu, chỉ vào chữ tờ giấy nhàu nát trong tay. Thuỵ Khuê đang học từ theo cách chiết tự. Mỗi chữ to đều bị xé thành những phần nhỏ, cách học độc đáo, một lời khó nói hết.
*chia nhỏ từ để hiểu nghĩa của từ
Tôi ngó tờ giấy trong tay Hoài Chương, tốn một lúc mới nhìn ra chữ “diệu” nguệch ngoạc. Hoài Chương đưa tờ giấy nhàu nát cho tôi, hỏi: “Cậu thấy chữ “diệu” có vấn đề gì không?”
Tôi cẩn thận nhìn thêm một lần. Nét sổ có hơi run tay, nên mực in xuống giấy chỗ đậm chỗ nhạt, còn lại đều ổn. Tôi lắc đầu, vuốt phẳng tờ giấy: “Không thấy gì cả.”
Hoài Chương chỉ vào nét ngang cuối cùng, nói thêm: “Chỗ này là sau này mới thêm vào. Cậu xem, màu mực có sự khác biệt rất lớn.”
“...”
Văn nhân và kẻ ít chữ, tốt nhất là không nên trò chuyện nhiều. Tôi nhìn nửa ngày không ra điều gì bất thường, Hoài Chương liếc mắt đã thấy lỗi sai. Cách biệt giữa người với người, đúng là vô tận. Tôi nghe lời Hoài Chương nhìn thêm một lần nữa, phát hiện không chỉ nét ngang mà nét sổ ở bộ “truy” cũng được kéo dài thêm một đoạn. Lúc đầu Thuỵ Khuê chỉ viết ba nét ngang, sau này mới sửa lại thành bốn.
Hoài Chương lại cầm một mẩu giấy đã bị vo tròn lên, trải ra sập, nghiêm túc xem xét. Tôi giật thót. Mỗi lần Hoài Chương có biểu cảm này, sau đó chắc chắn sẽ có chuyện không hay. Quả nhiên, Hoài Chương lại lấy thêm vài mẩu giấy, xếp thành hàng ngang trên sập, gọi tôi lại hỏi thăm. Tôi nào biết cái gì, thấy được gọi thì đành căng da đầu ứng phó. Cũng may lúc nãy Hoài Chương có nói qua, tôi bèn trông mèo vẽ hổ, nói đúng đến bảy tám phần.
Thuỵ Khuê viết chữ rất hay thiếu nét. Chữ thì thiếu nét chấm, chữ thì nhầm bộ mục và bộ nhật, tóm lại là nhìn đâu cũng thấy lỗi. Trông Hoài Chương nghiêm nghị, tôi cũng không tiện mở miệng nói đỡ. Con thứ của Hiền vương, cháu ruột của Quan gia, mười hai tuổi vẫn là một đứa mù chữ, chuyện này truyền ra ngoài, trăm hại mà không lợi. Cái khó chưa nói, cái cơ bản thì không được phép mắc sai lầm. Mẹ nói đúng, Thuỵ Khuê vẫn nên được rèn dũa cẩn thận.
“Ôi, hai anh làm gì thế?”
Tôi còn chưa kịp trả đống giấy vụn về nguyên trạng thì Thuỵ Khuê đã ập vào bắt quả tang. Thuỵ Khuê vội vàng đưa khay trà cho người hầu phía sau, lao vào nhà, nhìn chằm chằm đống chữ đang được Hoài Chương xếp ngay ngắn trên sập. Sắc đỏ hiếm hoi xuất hiện, Thuỵ Khuê cúi gằm như đứa trẻ hư bị người lớn tóm được. Sau vài giây, Thuỵ Khuê ngẩng đầu, vơ vét đống giấy viết sai, vo tròn đầy qua loa rồi ném vào cái thùng bên cạnh, miệng không quên lẩm bẩm: “Các anh làm thế này là xâm phạm quyền riêng tư.”
“...”
Vấn đề bây giờ không phải là cái quyền riêng tư quái quỷ. Viết chữ còn không thành thân, mấy hôm nữa tham gia hội thơ thế nào?
Hội thơ?
Tôi chán nản thở dài. Phụ thân đã hạ tối hậu thư, yêu cầu Thuỵ Khuê phải tham gia hội thơ, kết quả thi đấu sẽ được xem xét để miễn trừ hình phạt dạo trước. Câu trả lời cho thái độ cần mẫn quá mức của Thuỵ Khuê cũng lập tức có câu trả lời. Thuỵ Khuê biết rõ thi văn vô vọng nên đặt hết hy vọng sang hội săn. Là người sát sao Thuỵ Khuê mấy hôm nay, tôi buộc phải nói lời thật lòng. Triển vọng ở mảng này cũng không cao hơn mảng văn chương bao nhiêu. Thuỵ Khuê sẽ khó tránh được hình phạt.
Hoài Chương không bị hành động này chọc giận, chỉ từ tốn cười và trả lời: “Mấy hôm nay bận rộn, Húc không quan tâm đến việc học của Thuỵ Khuê. Hôm nay đến thăm, một là ngỏ ý xin lỗi, hai là muốn xem xét bài vở. Tấm lòng của người làm thầy, mong Thuỵ Khuê hiểu cho.”
“...”
Nói chính nghĩa đến mức này, không đồng ý thì khác nào không biết điều. Thuỵ Khuê xụ mặt, sai người đưa cho tôi và Hoài Chương mỗi người một cái chén gốm có khắc nổi họa tiết hoa sen tinh xảo. Vẻ ngạc nhiên hiếm thấy lóe qua mắt Hoài Chương. Tôi đoán được lý do. Không phải người nào cũng có thể tuỳ nghi sử dụng bộ chén trước mặt.
Ngày tôi còn bé, cứ cách vài ngày, phụ vương sẽ pha trà bằng bộ chén này. Trà pha xong, phụ vương không mời khách, cũng không uống, chỉ đăm chiêu nhìn khói trắng bốc nghi ngút, để mặc cho trà nguội. Thấy lạ, tôi chạy đi hỏi mẹ. Câu trả lời nhận được làm tôi ngớ người.
Xét về lịch sử, bộ chén này còn lớn tuổi hơn cả phụ vương tôi, là hàng đặt riêng từ làng gốm Bát Tràng trứ danh. Đây vốn là di vật của ông nội, là quà ông tặng bà nội, sau này thì thuộc về phụ vương tôi. Ngày rời đi, phụ vương đã để lại hầu hết dụng cụ pha trà ở thành Tống Bình, bộ chén này là bộ hiếm hoi được mang theo.
Lớn rồi tôi mới biết, những lúc phụ vương pha trà mà không uống là đang nhớ bà nội. Bà nội cũng là một người yêu sen. Hoàng thất đã phong vương, nếu không được lệnh, tuyệt đối không thể trở lại kinh thành, hai mẹ con không hẹn ngày gặp lại.
Từ ngày bị đày đến châu Lạng, phụ vương chưa từng nhận được chiếu chỉ trở lại kinh đô, bỏ lỡ biết bao sinh thần của bà nội. Phận làm cha làm mẹ, chỉ mong cảnh con cháu sum vầy. Phụ vương và Quan gia, hai người cùng mẹ, cuối cùng lại lâm vào cảnh anh em tương tàn. Sau chuyện phụ vương bị đày đi xa, quan hệ của bà nội và Quan gia cũng đã xấu đến cực điểm. Mấy năm trước, bà nội đã xuất gia trên đỉnh Yên Tử, từ chối mọi lời gặp mặt.
Bình luận
Chưa có bình luận