Hôm nay, Thuỵ Khuê đến muộn. Tôi thay nước châm trà đến ba lần mới đợi được được người đến. Thuỵ Khuê xoè cái quạt không biết lấy từ đâu ra che ngang mũi, tỉnh bơ: “Ta trốn ra đấy.”
“…”
Người này, có thể bớt thành thật một chút đi được không? Tôi đột nhiên thấy nhọc lòng thay Đức Ông và Đức Bà, có đứa con không theo lẽ thường thế này, chưa nói những chuyện khác, chỉ riêng việc đi sau dọn hậu quả đã là cả một vấn đề.
Thuỵ Khuê ngồi phịch xuống ghế, chẳng nói chẳng rằng, giật luôn chén trà trên tay tôi, dốc thẳng vào miệng, uống xong còn không quên cất lời chê bai: “Trà nguội quá, uống chẳng có vị gì.”
Tôi tức đến bật cười, lập tức giật lại chén trà rỗng, lại sai người hầu mang nước mới vào. Muốn uống trà ngon đâu có dễ như vậy. Vì đợi kẻ trước mặt, tôi đã thay nước trà đến ba lần, trà dù ngon đến đâu, thay nhiều lần nước, vị trà cũng sẽ không được như ban đầu.
Thuỵ Khuê thấy tên hầu lệ khệ bê một bình nước nóng vào phòng thì không ngừng suýt xoa: “Sao phải kỳ công thế, cho nước vào bình ủ là được mà.”
Tôi cho tên hầu lui xuống, lại hất tay đuổi cái đứa đang lăm le bình nước sang một góc rồi mới cẩn thận chế nước pha trà. Khói trắng bốc nghi ngút cuốn theo vị trà thoang thoảng không gian. Thuỵ Khuê hít sâu một hơi, nhanh chóng chồm đến. Tôi đẩy người ra rìa, chậm rãi rót hai chén trà đặt sang hai bên rồi mới trả lời câu hỏi lúc trước: “Trà muốn ngon thì phải pha bằng nước sôi.”
Trà pha bằng nước ấm, chẳng những thời gian hãm trà lâu hơn, mùi vị cũng sẽ không được đảm bảo. Tốt nhất là pha bằng nước sôi, không cần đến mức sôi già, nhưng ít nhất phải đảm bảo sôi đến chín phần mới miễn cưỡng được một ấm trà đạt chuẩn.
Thuỵ Khuê nghe thế thì gật đầu lấy lệ rồi nhanh chóng bưng chén trà lên, vừa thổi vừa thưởng thức. Tôi còn chưa kịp nói câu “trà nóng”, tất cả nước trà đã an vị trong bụng người đối diện. Thuỵ Khuê thoải mái “ợ” một hơi, chìa cái chén rỗng về phía tôi. Tôi bật cười, rót thêm lưng chén trà.
“Uống chậm thôi, trà đặc không phải nước, uống nhiều quá đêm về không ngủ được đâu.”
Thuỵ Khuê phẩy phẩy tay, tỏ vẻ không quan tâm. Tôi cũng rõ tính người này nên cũng không nhiều lời, lại rót thêm một chén trà nữa. Thoáng cái, Thuỵ Khuê đã uống được ba chén trà nóng, tôi ngược lại chưa uống được ngụm trà nào.
Tôi đặt cái ấm đã vơi hơn nửa xuống bàn, cẩn thận cầm chén trà trước mặt lên, sau khi cảm nhận đầy đủ vị trà thơm ngát lẫn giữa những tia không khí trong phòng thì mới chầm chậm nhấp một ngụm trà.
Tôi đặt cái chén đã vơi phân nửa xuống bàn. Bên kia, Thuỵ Khuê đã tự rót thêm một chén đầy. Đợi tôi uống xong, Thuỵ Khuê mới bắt đầu càu nhàu: “Từ đầu uống trà nóng có phải tốt không, cậu dở chứng uống trà lạnh làm gì thế không biết?”
“...”
Nếu không phải Thuỵ Khuê đến muộn, tôi nào có lâm vào cảnh phải thay nước hãm trà liên tục. Tôi đáp: “Nhờ phước của cậu Hai, Tâm không dám nhận công.”
Thuỵ Khuê nghe ra ý mỉa mai của tôi, nhảy dựng lên như con đỉa phải vôi: “Chỉ là đun một ấm nước thôi mà…”
“...”
Đúng là không ra đồng nên không biết hạt gạo quý. Đun nước không khó, cái khó là giữ được độ ấm cho nước. Trời đang độ giữa đông, nước đun sôi chỉ cần rời lửa đều sẽ bị môi trường bên ngoài làm giảm nhiệt độ, từ nóng hôi hổi trở nên lạnh buốt, dù có trữ trong bình trúc quấn nhiều lớp khăn cũng không khả quan hơn là bao. Tôi thà uống trà lạnh còn hơn uống trà pha từ nước ấm.
Thật ra, tôi hoàn toàn có thể lợi dụng ưu thế thân phận, yêu cầu đám hầu giữ lửa, luôn đảm bảo có nước nóng sẵn sàng sử dụng. Có điều, tôi không thích lợi dụng điều này, trời trở rét, nước nguội cũng là điều đương nhiên, không thiết vì chuyện nhỏ này mà thêm việc cho đám hầu. Dù sao, lỗi cũng từ Thuỵ Khuê mà ra, để Thuỵ Khuê uống một chén trà lạnh cũng coi như có qua có lại.
Cho chừa cái tật lề mề.
…
Hỏi ra mới biết, từ sáng đến giờ, Thuỵ Khuê vẫn chưa có gì bỏ bụng. Mới sáng bảnh mắt, Thuỵ Khuê đã vội vàng chạy đi tìm Vũ Hoài Chương, nhờ anh ta điều đình, thu xếp với Đỗ Hoành Sóc một ngày nghỉ học. Chạy ngược chạy xuôi, đến khi xong việc thì đã muộn, bữa sáng đã qua từ lâu.
Tôi nghe thế thì lập tức cho gọi tên hầu đang đứng đợi bên ngoài vào, ra hiệu cho hắn chuẩn bị một bát cháo nóng để Thuỵ Khuê xua đuổi khí lạnh. Trông dáng vẻ định uống trà thay cơm của người đối diện, tôi cảnh giác kéo bộ ấm pha trà về phía mình, không quên buông lời đe dọa. Cứ ỷ vào tuổi tác để phung phí sức khỏe, không sớm thì muộn cũng phải chịu hậu quả.
Thuỵ Khuê cười gượng rồi buông chén trà xuống, nhìn về phía cửa, đợi người hầu mang cháo lên. Trong lúc chờ cháo, Thuỵ Khuê vẫn không chịu yên, liên tục kiếm chuyện. Đề tài mới nhất - vụ việc với Bùi Nhị mấy hôm trước - được đem ra sử dụng.
Vụ “say rượu” lần trước đã trở thành chủ đề bàn tán trong suốt mấy ngày sau đó, Thuỵ Khuê cũng vì thế mà tiếp tục nhận thêm một lệnh cấm túc dài hạn. Chuyện đó ảnh hưởng khá lớn, hai bên tham gia xung đột đều không có ý muốn hoà giải, tôi vốn tưởng Thuỵ Khuê sẽ bị nhốt chừng mười ngày nửa tháng, không ngờ, mới qua ba ngày, người này đã ngang nhiên “vượt ngục”, ngang nhiên hẹn tôi ra ngoài.
Vô sự không lên điện Tam Bảo, trong lúc nước sôi lửa bỏng thế này, lý do duy nhất khiến Thuỵ Khuê bỏ ngoài tai lời đe dọa của Đức Bà và hậu quả khi trái lệnh Đức Ông chỉ có một - lũ nạn dân đang trong cảnh màn trời chiếu đất. Ngay sau hôm bị nhốt, con hầu Xuân Mai đã thay Thuỵ Khuê mang đến một lá thư. Lời lẽ trong thư khẩn thiết đến độ tôi chỉ cần đọc hai dòng đầu đã biết ngay là do Thuỵ Khuê đọc cho con hầu kia viết hộ.
Tôi cất lá thư còn vương mùi giấy vào trong hộp, đặt bên cạnh sợi dây buộc tóc đỏ, thầm thở dài. Thay vì dư thừa lòng thương người, lo lắng cho những kẻ không liên quan, Thuỵ Khuê nên dành sự quan tâm lớn hơn cho vấn đề học vấn của bản thân. Con thứ của Hiền Vương, dù sao cũng không thể mang cái danh mù chữ đến cuối đời được, tuổi nhỏ thì còn có thể viện cớ mải chơi không quan tâm việc học, sau này đến thành Tống Bình, đây sẽ là điểm yếu chí mạng.
Tôi đã nói nhiều lần nhưng Thuỵ Khuê đều bỏ ngoài tai, chỉ đành gác vấn đề này sang một bên. Chuyện quan trọng bây giờ là xử lý cho xong chuyện của đám nạn dân đang chen chúc ở khu trại tị nạn. Nói thật, tôi không hiểu được tính toán của cha tôi và Đức Ông. Không phải dân ta, ắt có lòng khác. Chưa nói đến những vấn đề khác, chỉ riêng việc nuôi ăn đám người này đã tiêu tốn của ngân khố một số tiền khổng lồ. Nếu không phải Thuỵ Khuê nhờ vả, một cắc bạc tôi cũng không muốn bỏ ra. Hoàng đế của bọn chúng đã phẩy tay mặc kệ bọn chúng tha hương, lý gì chúng tôi phải tiếp nhận đám của nợ này?
Đó chỉ là những suy nghĩ tôi giấu trong đầu, trước mặt Thuỵ Khuê, tôi sẽ không bao giờ nói ra. Thuỵ Khuê luôn dễ mủi lòng trước những kẻ yếu thế. Ngày trước là mấy đứa con gái ở trường nữ sinh, bây giờ là đám nạn dân không nơi nương tựa. Dù sao cũng không tốn bao nhiêu tiền, coi như là nuôi thêm vài con chó, con mèo, giúp Thuỵ Khuê giải khuây. Có thể khiến Thuỵ Khuê vui vẻ, tạm quên đi vụ việc không vui với họ Bùi, số tiền tôi sắp bỏ ra cũng coi như không lãng phí.
Nói là giúp đỡ, nhưng tôi sẽ không tuỳ tiện chi tiêu. Chó mèo cũng phân nhiều loại, có chó trông nhà, có mèo giữ cửa, cũng có những con chó, con mèo hoang cả người đầy rác rưởi, loại hạ đẳng đó không xứng đáng nhận được sự giúp đỡ của tôi. Chỉ nhìn thêm một giây cũng đủ khiến tôi chán ghét. Nhưng Thuỵ Khuê muốn giúp chúng, tôi nào thể làm khác, chỉ đành cho người đi tìm hiểu, tránh để tiền bạc rơi vào tay đám chó mèo hoang bẩn thỉu. Hầu hết những kẻ này đến từ khu vực sát biên giới, lý do tha hương cầu thực thì vô hình vạn trạng, nhưng có thể tóm gọn thành hai vấn đề chính - mất mùa và chiến tranh.
…
Chúng tôi đang ở khu trại mà quan phủ tạm thời bố trí cho đám nạn dân. Liều trại san sát, phân chia khu vực rõ ràng. Điều kiện không phải là quá tốt, nhưng đối với những kẻ không nhà không cửa, đây đã là một đặc ân. Thuỵ Khuê đi trước, tôi lững thững theo sau, vừa đi vừa quan sát hàng dài người đang cúi đầu chờ được đăng ký. Hầu hết là nam giới, ai nấy đều cúi gằm, không nhìn rõ sắc mặt. Không cần nhìn sắc mặt bọn chúng, tôi cũng biết, sau những cái cúi đầu kia là những gương mặt ủ rũ và chán nản cùng cực. Tam thập nhi lập*, ăn còn không có, đứng vững sao được.
*câu của Khổng Tử, ý chỉ ba mươi tuổi đứng vững, ổn định về tư tưởng
Thuỵ Khuê đang đi phía trên bất ngờ giật lùi, ghé sát vào tai tôi hỏi thăm: “Lạ nhỉ, sao không thấy phụ nữ?”
Hương sen nhàn nhạt lướt qua đầu mũi, tôi sững người, hơi lùi về phía sau, kéo giãn khoảng cách. Thuỵ Khuê không chú ý tới hành động nhỏ này, tiếp tục sán lại dò hỏi. Tôi chỉ vào hàng dài trước mặt, trả lời: “Đây là trại nam giới, làm sao có nữ giới được?”
“Cũng đúng.”
Thuỵ Khuê có hỏi thì tôi mới thấy điều lạ. Nói là chia khu nhưng cũng chỉ mang tính tương đối, quan phủ không đủ nhân lực để trông coi hết đám này, chỉ đành vẽ ra một lằn ranh phân cách đại khái. Muốn đi đến khu trại nam, bắt buộc phải đi qua trại nữ. Lúc nãy chúng tôi đã đi qua, đúng như Thuỵ Khuê nghi vấn, chỗ này không có nhiều phụ nữ, cũng thiếu tiếng trẻ con. Bình thường, khi chạy nạn, dân chúng sẽ dắt díu già trẻ gái trai cùng theo, ở đây chỉ có nam đinh, đúng là chuyện lạ. Có điều, đây là việc của quan phủ, tôi không có quan chức trong người, đến đây hoàn toàn là do Thuỵ Khuê muốn thế. Tôi lười tiếp xúc với đám hạ dân.
Người xếp hàng mỗi lúc một đông, mà người biết chữ để tiến hành ghi chép lại chẳng có mấy mống, dù có bổ sung thêm cả chục người ghi tên thì vẫn sẽ như muối bỏ bể. Hỗn loạn là điều đương nhiên. Quan phủ hẳn là chưa lường tới điều này, những tên lính canh phía trên chật vật mãi mới duy trì được đội ngũ. Thuỵ Khuê thấy thế thì vội vàng rút lệnh bài tuỳ thân, giao cho một tên lính gần đó rồi thấp giọng dặn dò. Tên lính thưa vâng rồi vội vàng đi ngay.
Tôi lắc đầu, tỏ ý không tán thành: “Chuyện này, để người của quan phủ lo là được rồi, cớ sao cậu lại dính vào?”
Thuỵ Khuê vốn đang bị cấm túc, giữa lúc này lại bày thân phận ra, dùng lệnh bài gọi thêm binh sĩ, chuyện này này mà đến tai Hiền vương, chỉ hại mà không lợi. Vì những kẻ không liên quan mà hy sinh bản thân, người khác tránh còn không kịp, chỉ có Thuỵ Khuê mới vui vẻ làm.
Thuỵ Khuê lo lắng nhìn về phía đám đông hỗn loạn phía xa, trả lời: “Ta không nghĩ nhiều được như thế. Người ta cùng đường mạt lối lắm mới phải rời bỏ quê hương, không thể thấy chết mà không cứu được.”
Lý lẽ chính đáng như thế, tôi trả lời thì lại thành nhỏ nhen, thành ra, tôi chỉ đành gật đầu, xem như là đồng ý với cách lý giải này. So với mấy thứ danh vọng hão huyền, tôi càng coi trọng lợi ích thực tế hơn. Tôi liếc sang phía Thuỵ Khuê đang cau mày, đám trước mặt, nuôi tạm vài ngày thì không sao, nhưng nuôi lâu dài thì lại là chuyện lớn cần bàn bạc kỹ.
Đám người này, cho chốn ở là không đủ. Lấy tiền thuế của người dân nuôi chúng khác gì là lấy thịt nuôi hổ, hậu hoạ khôn lường. Việc khác chưa nói, trong dân chúng đã bắt đầu xuất hiện những âm thanh phản đối. Việc này nói lớn không lớn, nhưng nói nhỏ thì cũng không đúng. Một đốm lửa nhỏ, nếu vào tay kẻ biết sử dụng, có thể thiêu cháy cả một khu rừng.
Năm nay thiên tai, cứu trợ của triều đình đổ về, qua tầng tầng lớp lớp trung gian, đến được châu Lạng chỉ như muối bỏ bể, lo cho miệng ăn sở tại đã đủ khó khăn, làm sao còn dư để lo cho đám người không cùng gốc gác. Bây giờ không phải lúc để tranh cái danh “người tốt”. Muốn giúp đỡ người khác, bản thân trước hết phải đủ đầy. Đạo lý xưa nay là thế.
Như biết điều tôi lo lắng, Thuỵ Khuê ghé lại gần tai tôi, thì thào: “Không phải lo đâu, chúng ta nhiều lương thực lắm.”
Tóc mai của Thuỵ Khuê sượt qua gò má làm tôi hơi ngứa. Tay tôi bất giác chạm nhẹ vào chỗ đám tóc con vừa quét qua, hương sen vẫn quyến luyến nơi đầu mũi. Tôi giật mình, hơi ngả người về phía sau, đáp lại: “Ở đây không có người ngoài, cậu không cần phải dựa gần như thế.”
“Không được.”
Thuỵ Khuê lắc đầu, giọng vô cùng dứt khoát: “Đây là bí mật của ta, không được để người khác biết.”
“…”
Thuỵ Khuê thì thầm vài câu, tôi ngớ người. Gọi chuyện này là bí mật quả không sai. Tôi nghĩ đến nhiều khả năng, chỉ là không tính đến chuyện này. Lương thực do triều đình gửi xuống vốn đã không nhiều, lại bị đám họ Bùi và họ Trịnh tham ô phân nửa, số còn lại là trộn gạo mốc thay thế, đến tay người dân đã chẳng còn lại gì.
“Ai bảo bọn chúng cướp trước.”
Thuỵ Khuê dương dương tự đắc nói, tóc mai đung đưa theo chuyển động của gương mặt, như một sợi lông vũ quét qua gò má tôi. Tôi rùng mình, theo phản xạ lại lùi lại. Thuỵ Khuê không nhận ra, vẫn cứ thao thao bất tuyệt: “Cái này gọi là binh đến tướng chặn.”
“…”
Người còn biết dùng cả thành ngữ cơ đấy. Thật là giỏi giang làm sao! Tôi bật cười, cảm xúc lạ lẫm lúc trước nhanh chóng bị đẩy sang một bên. Tôi hỏi: “Rồi sao?”
Thuỵ Khuê hếch cằm, ra vẻ chính nghĩa: “Còn sao nữa. Mấy vị vận lương nhỡ miệng đớp hơi nhiều, dân chúng không nhận được bao nhiêu. Lòng người bất an, lại thêm thiên tai quấy phá, người dân nghèo bị ép trở thành đạo tặc, đành tự đứng lên đòi lại lương thực thuộc về mình thôi.”
“...”
Đã gặp qua kẻ mặt dày, nhưng mặt dày lại còn đường đường chính chính thế này thì đúng là lần đầu trông thấy.
“Kế hoạch này của cậu…” Tôi không nói lên lời, mọi suy nghĩ đều gói gọn trong một lời khen: “... đúng là táo bạo.”
“Tất nhiên.”
Thuỵ Khuê không hề nhận ra tôi đang mỉa mai, đắc ý gật đầu: “Đến cha ta cũng phải khen ngợi mà.”
Tôi đã nghe qua một vài câu chuyện bên lề. Đại khái là dạo trước, có một vài nhà giàu trong vùng đến quan phủ cáo trạng, nói rằng đạo tặc đã tấn công xe chở lương thực, cướp đi phần lớn lương thực của chúng. Đạo tặc hung ác, coi thường phép tắc, mong triều đình phái quân diệt trừ. Lời lẽ dù có khác nhau, nhưng tựu chung vẫn là ý này. Cha bị mấy người này làm phiền, bèn dứt khoát cáo ốm ở nhà chơi chim ngắm hoa, đẩy toàn bộ nhiệm vụ lên anh trai. Anh trai không phụ kỳ vọng, làm gọn gàng đâu ra đấy, sau khi nghe mấy người này cáo trạng đã lập tức phái người điều tra.
Chuyện sau đó, tôi không được rõ, dù sao cũng là bí mật của quan phủ. Chỉ biết, điều tra xong, anh trai đã thừa lệnh cha, phái binh tiêu diệt đám đạo tặc. Nhưng diệt được một đám thì lại có một đám khác mọc lên, anh trai đành cáo lỗi với đám nhà giàu, nói rằng binh sĩ không đủ, mong họ thông cảm. “Chịu khó sống chung với lũ” vài tháng, đợi vụ xuân qua, lượng thực đủ đầy, sẽ không còn chuyện cướp bóc nữa. Lời nói dối vụng về này, đến trẻ con ba tuổi cũng không dùng.
Bọn họ biết rõ anh trai có lệ nhưng chỉ đành ôm bụng tức trở về, ai bảo anh trai đang nắm chính nghĩa. Thời nào cũng thế, cứ có chính nghĩa trong tay là đã đảm bảo thành công năm phần. Nếu mấy tên này lắm mồm quá, anh trai hoàn toàn có thể nói thẳng, binh lính phải để phòng thủ biên giới, không thể chia nhỏ. Mấy bao gạo mà dám so với an nguy đất nước, ai cho các người cái gan ấy. Đám người kia hẳn là cũng nhìn ra điều này nên chỉ đành cúp đuôi, không dám náo loạn nữa. Triều đình người ta cũng tận lực rồi, liên tục mất đồ chỉ có thể đổ cho số họ không may mắn.
Lúc đầu, tôi chỉ nghĩ là có người bất mãn, âm thầm đứng sau thao túng, lại thêm may mắn, đám “đạo tặc” mới thành công mà lui. Nào ngờ người bất mãn chẳng thấy đâu, chỉ thấy cha tôi, anh trai và Hiền vương, ba người chụm lại chơi trò “gậy ông đập lưng ông”. Hay cho chiêu “lấy của địch nuôi quân ta”, chỉ tội đám người Bùi, Hoàng vô tri, bị ba vị đó quay vòng vòng.
Hoặc có thể chúng biết, nhưng lại không làm gì được. Nếu không, theo cái nết hám danh hám lợi của đám đó, mấy chuyện cứu trợ này, chỉ cần nhắc tên là chúng sẽ lập tức nhảy ra tranh công. Sĩ, nông, công, thương. Đám thương nhân trước nay không được coi trọng, chỉ là tình hình châu Lạng đặc biệt mới khiến chúng có cơ hội bay cao. Cơ hội thể hiện dâng đến trước mặt mà bọn chúng hoàn toàn ngoảnh mặt làm ngơ, đúng là kỳ lạ.
Nói đến đây, tôi cũng lờ mờ đoán được lý do đám người “thích làm điều thiện” đó vắng mặt. Chẳng những “cướp” gạo, bây giờ còn muốn bọn chúng ra mặt, làm gì có cái lý ấy? Thuỵ Khuê rõ ràng là không nghĩ như thế. Không biết là nghĩ tới cái gì, Thuỵ Khuê nhếch môi, nói nhỏ: “Hữu Nghĩa này, nếu bị ai đó tát vào má bên trái, cậu sẽ làm gì?”
“…”
Chủ đề chuyển quá nhanh, tôi tạm thời chưa phản ứng kịp. Thuỵ Khuê đã thu lại vẻ lo lắng lúc trước, ánh mắt tràn đầy vẻ hào hứng, chờ đợi câu trả lời của tôi. Trong đầu hiện ra vô vàn ý tưởng, tôi cắn răng nói ra suy nghĩ “nhẹ nhàng” nhất: “Chạy?”
Người xưa nói rồi, trong ba mươi sáu kế, tẩu vi thượng. Theo thói đánh không lại ta đi tìm cứu binh của Thuỵ Khuê, đây là phương án khả dĩ nhất. Bả vai bị đập mạnh, tôi cau mày nhìn sang. Thuỵ Khuê tặc lưỡi, chê bai:
“Cậu chẳng sáng tạo gì cả.”
“…”
Xin hỏi, chuyện này còn có cách trả lời khác “sáng tạo” hơn à? Nếu không phải suy nghĩ cho Thuỵ Khuê, tôi sẽ chọn cách trực tiếp nhất. Câu hỏi này, từ lúc đầu đã vô nghĩa, tôi sẽ không để người khác chạm vào mặt mình. Trông ánh mắt mong đợi của người đối diện, tôi thêm một lần nữa dối lòng, nỗ lực tạo điều kiện cho Thuỵ Khuê thể hiện. Tôi chẳng thèm che giấu vẻ giả tạo, hỏi thẳng:
“Xin được chỉ giáo.”
Thuỵ Khuê chỉ chờ có thế, lập tức tung ra tuyệt chiêu: “Tất nhiên là đưa nốt má phải ra để người ta tát cho nó cân.”
“…”
Sáng tạo đến mức này, tôi tự nhận không bằng.
Mấy lời này, tám phần là xuất phát từ một quyển tiểu thuyết chương hồi rẻ tiền nào đó. Thuỵ Khuê cứ hễ động đến sách vở là lại đau đầu, song mấy món tạp kỹ bên đường thì lại học rất nhanh, không gì không biết. Tôi nhanh chóng nhận ra vấn đề, bèn hỏi thẳng: “Cậu lại đọc được câu này trong quyển truyện nào thế?”
Thuỵ Khuê đáp ngay: “Táo Quân.”
Đây nào tính là câu trả lời. Tôi nhếch miệng, không hỏi thêm. Thuỵ Khuê nói thế này, phần nhiều là sách đến tay theo đường không sạch sẽ. Nguồn gốc không đứng đắn nên mới không thể nói rõ nội dung bên trong. Mấy chuyện riêng tư, tôi không tiện can thiệp quá mức, chỉ đành uyển chuyển nhắc nhở: “Cậu ít đọc mấy thứ sách đấy thôi.”
Quả nhiên, tôi vừa dứt lời là Thuỵ Khuê đã sửng cồ, giọng nói cũng bất giác cao lên mấy phần: “Này nhá, mỗi người một sở thích, cậu đừng có giở thói kỳ thị.”
Tiếng nói có phần lớn hơn bình thường này đã thu hút sự chú ý của đám người xung quanh. Thuỵ Khuê có vẻ đã nhận ra vấn đề, bối rối cúi đầu rồi nhanh chóng túm lấy tay tôi, kéo tôi về phía một tảng đá ở phía xa, khi đi còn không quên lẩm bẩm kiếm cớ: “Đi kiếm chỗ ngồi cái đã, ta mỏi chân rồi.”
Tôi nhìn bàn tay đang bị túm chặt, khẽ cong môi, tâm trạng cũng trở nên vui vẻ hơn. Cái đứa này.
…
Thuỵ Khuê không bao giờ ngừng được cái miệng. Sau vài phút đơn phương tức giận, Thuỵ Khuê đã làm như không có chuyện gì, quay lại ríu rít về kế hoạch “gậy ông đập lưng ông” lúc trước.
Thuỵ Khuê đang chăm chú quan sát những tên nạn dân phía xa, thấy tôi gọi thì quay lại, không quên khoe khoang: “Chuyện này cũng không hẳn là ta nghĩ ra, là mẫu thân của ta nghĩ ra.”
“...”
Cả nhà này nghiện làm trộm hay gì?
Có nằm mơ bọn Bùi, Hoàng cũng không nghĩ đến khả năng Hiền vương để quan binh đóng giả đạo tặc cướp hàng. Chuyện này, suy cho cùng, cũng là một sự trùng hợp. Cắt xén lương thực là thật, nạn dân nổi dậy cũng là thật, chỉ có “đạo tặc” là giả. Đức Bà, trong một tối, đã cảm thán về số phận vô thường của những kẻ bần cùng. Tất cả gói gọn trong một câu “cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”. Trắng trợn tham ô lương thực cứu tế, không phải cướp ngày thì là gì?
Thuỵ Khuê không hiểu sao lại nghe được câu này, bĩu môi phản đối: “Đã là cướp, còn phân biệt sang hèn làm gì?”
Một câu soi đường cho người trong mộng. Nhờ Đức Bà gợi ý, Thuỵ Khuê mở đường, kế hoạch “đạo tặc” đã được hình thành. Trông tình hình phát cháo hiện tại, thu hoạch của đám “đạo tặc” này có vẻ khá khả quan. Chỉ tội cho kho lương họ Hoàng, nghe đồn là đêm nào nhà này cũng có người ghé thăm. Ai bảo nhà này chuyên bán gạo, kho thóc tràn đầy, không cướp ở đây thì cướp ở đâu?
Bình luận
Chưa có bình luận