Cơ thể lạnh cóng được hơi nóng từ ngọn lửa sưởi ấm, tôi cũng không nề hà, ngồi xuống bên cạnh Hoành Sóc, khẽ hơ hơ trên ngọn lửa, nhờ hơi ấm xua đi cái rét đang bủa vây.
Thấy mấy người hộ vệ vẫn phía ngoài, tôi khẽ huých tay Hoành Sóc. Em gật đầu, nói với người đánh xe đang lúi húi phía sau: “Lão Ngô, bảo những người hộ vệ kia không cần câu nệ, cứ vào đây tránh mưa đi.”
“Đội ơn cậu.” Lão Ngô chắp tay vái rồi đi gọi những người hộ vệ đang định trú mưa bên ngoài vào.
Từ nhỏ đến lớn, dù là lúc ở kinh đô mưa nhiều nắng gắt hay là khi ở vùng sa mạc gió cát, cả năm không mưa, tôi cũng không có quá nhiều lời kêu ca. Dẫu vậy, tôi vẫn khó lòng chịu được kiểu thời tiết nồm ẩm mỗi dịp cuối năm. Không khí lúc nào cũng ẩm ướt, trời đất mịt mù, thật hợp với hai câu thơ của Tố Như tiên sinh - cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.*
Tôi đột nhiên nhớ tới cha cũ, ông ta cô độc qua đời vào một ngày mưa nồm. Chuyện trước kia đã lùi xa, tôi hiếm khi nghĩ về quá khứ, thân phận hiện tại khiến hai cha con tôi hiếm có cơ hội gặp nhau. Qua những chuyện xảy ra mấy năm gần đây, tôi đoán ông ta vẫn sống ổn. Lần gần nhất gặp mặt là khi tôi nhận ấn bảo trạng nguyên từ tay ông ta, trong giây phút mắt chạm mắt, tôi có cảm giác, cha cũ đã gầy hơn so với trí nhớ của tôi, nhưng đôi mắt của ông ta vẫn sắc bén như cũ.
Song, đó không phải là điều quan trọng lúc này. Điều tôi quan tâm là vượt qua đêm mưa tối nay an toàn. Mấy người hộ vệ đã xử lý vài vị khách không mời, góp thêm một ít lương thực cho bữa tối muộn của cả đoàn. Hoành Sóc nhìn người hộ vệ xách hai con thỏ vừa bắt được ra ngoài, nói với theo: “Để lại cho ta bộ da.”
Thỏ hoang lông xám thịt chắc lông mềm, thích hợp làm thành những chiếc găng tay nhỏ cho những người phụ nữ trong nhà.
…
Lão Ngô trở lại, theo sau là chừng mười người hộ vệ. Quần áo họ đã bị mưa xối ướt đẫm, tất cả đều cầm theo một tay nải nhỏ, người sau nối tiếp người trước, tiến đến trước mặt Hoành Sóc, vái chào rồi mới tản ra tìm chỗ ngồi xuống.
Tôi nhìn theo mười người đang lùi dần về phía sau, chỉ thấy họ không hề túm lại mà ngồi rải rác khắp phòng, không quá gần mà cũng chẳng quá xa, tránh làm phiền chúng tôi. Mười người chia ra thành những nhóm từ hai đến ba người, xếp thành hình vòng cung quanh đám lửa, để chừa ra tầm nhìn về phía cửa, đảm bảo sẽ không có bất kỳ điều gì khiến họ lâm vào cảnh bị động.
Mưa mỗi lúc một dồn dập. Trong phòng, ai làm việc nấy, người hơ quần áo trên lửa, người lau kiếm, người ăn lương khô, không ai nói với ai câu nào, không gian tĩnh lặng đến nỗi ngoài tiếng mưa thì chỉ có tiếng tách tách của ánh lửa bập bùng.
Lão Ngô xung phong ngồi cùng chúng tôi, hai tay thoăn thoắt nướng thịt thỏ trên cái giá mới được dựng tạm thời, đợi đến khi thịt bắt đầu có màu vàng ươm thì mới lật sang mặt còn lại. Lật đi lật lại, sau khi đảm bảo thịt đã chín đều cả hai mặt, lão Ngô rắc thêm một chút gia vị rồi cung kính cho chúng tôi hai xiên to nhất.
Tôi từ chối: “Cảm ơn ông, Húc muốn uống canh trước.”
“Dạ, thưa cậu.”
Tôi có thói quen trước khi ăn món chính phải uống một bát canh nhỏ để làm ấm cơ thể. Hoành Sóc thấy thế thì nhận một xiên thịt, đẩy một xiên lại cho lão Ngô: “Mặc kệ cậu ta, ông cứ ăn đi.”
Đúng là một miếng khi đói bằng một gói khi no, tôi uống xong bát canh đã thấy Hoành Sóc ăn được ba xiên thịt, lão Ngô bên cạnh vẫn đang loay hoay nướng thịt. Hoành Sóc thấy tôi mãi vẫn chưa ăn gì, thực vào lời ra, không sợ hãi, lên giọng dạy dỗ ngược lại tôi: “Hoài Chương, cái thói ăn uống dưỡng sinh gì đó, cậu nên sớm bỏ đi.”
Em nói xong thì dúi cho tôi một xiên thịt mới được nướng chín, giục tôi mau ăn. Hiện tại, tôi họ Vũ, tên Húc, tự Hoài Chương. Cha mới nói mệnh tôi thiếu hoả, tên nên có lửa để ngũ hành đầy đủ. Tôi không thích cái tên này, hoả khí quá mạnh. Nhưng thôi, chín nhỏ hơn mười, Húc vẫn tốt hơn Tảo rất nhiều.*
*Chữ Húc (旭) là kết hợp của chữ nhật (日) và số chín (九), chữ tảo (早) là kết hợp của chữ nhật (日) và số mười (十)
“Cậu nhìn bản thân xem.” Tôi phản bác, nhận lấy xiên thịt từ tay em: “Mới khỏi ốm đã dầm mưa, ngại mình khoẻ quá hay gì?”
Hoành Sóc không cãi được, chỉ đành lẩm bẩm: “Cậu lại dông dài rồi, sức khoẻ ta, ta rõ ràng. Cơn mưa này thì nhằm nhò gì.” Vừa dứt lời thì “hắt xì” một tiếng.
Tuổi tác chúng tôi vốn không chênh quá nhiều, tôi sinh ra vào mùa đông năm trước, Hoành Sóc ra đời vào mùa xuân năm sau, nhưng ai bảo tôi sống lâu hơn, nghiễm nhiên thành người lớn hơn. Lần này, Hoành Sóc đã bị chặn họng, em im lặng, cúi đầu ăn nốt cái xiên trên tay. Tôi bật cười. Một buổi tối cứ thế bình yên trôi qua.
Chương 12: Bắc Tiến (04)
Chúng tôi trở về vào buổi sáng, mặt trời đã lên khá cao, ánh nắng hiếm hoi ngày đông bừng sáng không gian xung quanh, cũng để lộ ra những vết tích của cơn mưa đêm qua. Tôi vén rèm, nhìn ra ngoài, xe ngựa băng băng trên đường lớn, cảnh vật đang thay đổi không ngừng.
Hôm qua trời vừa tối vừa mưa nên tôi không nhận ra, từ khi bước vào địa phận châu Lạng, chúng tôi hầu như không gặp bất kỳ chướng ngại vật, đường sá hẳn đã được trùng tu, làn chính rộng rãi, thoải mái cho hai xe ngựa đi song song.
Ở những vùng khác, vấn đề giao thông không được chú trọng, người ta vẫn sử dụng những con đường cũ, sỏi đá lởm chởm, mỗi lần xe lăn bánh là một lần ruột gan tôi cồn cào. Đường êm đến nỗi tôi chìm vào giấc ngủ lúc nào không hay, đến lúc choàng tỉnh thì đã gần về đến nơi. Tốc độ này nhanh hơn rất nhiều so với dự đoán lúc đầu của tôi.
Xe ngựa đã vượt qua trạm kiểm tra ở cổng thành, dọc theo đường lớn đi về phủ Hiền vương. Tôi ngồi dậy, chỉnh trang trang phục, không quên nói với Hoành Sóc đang khoanh tay chợp mắt ở phía đối diện: “Đường sá châu Lạng đẹp thật.”
Hoành Sóc nghe thế thì mở mắt, trả lời: “Cũng là do Thuỵ Khuê đấy.”
Thuỵ Khuê vốn là một người ưa thích mỹ thực, ở đâu có món ngon là em sẽ tìm cách thưởng thức cho bằng được. Một số món có thể mang về nhà, nhưng một số món, quãng đường từ nơi bán đến phủ Hiền vương cũng đủ làm mùi vị bay hết, em đâm ra không chịu, nhất quyết đòi đến tận nơi thưởng thức.
Vấn đề là Thuỵ Khuê không biết cưỡi ngựa, cứ hễ em lại gần là mấy con ngựa trong chuồng lại chồm lên, giãy giụa không để em lại gần. Hết cách, cô chú đành để em di chuyển bằng xe ngựa. Chuyện không dừng ở đấy, Thuỵ Khuê yếu ớt lắm bệnh, vừa leo lên xe ngựa đã bị xóc nảy dọa lui, chuyện ra ngoài kiếm ăn cứ thế mà bị tạm hoãn vô thời hạn.
Bằng đi một thời gian, không biết Thuỵ Khuê nghe ai nói về một thứ quà quê - bánh đúc tàu, món này buộc phải ăn nóng, để nguội thì sẽ mất ngon. Biết kiểu gì cô chú cũng không đồng ý, vào một ngày xấu trời, em giấu tất cả mọi người, lén lút trốn khỏi nhà, một mình đi bộ đến tận ngôi làng sát biên giới để thưởng thức món bánh này.
Cô chú thấy em đột nhiên biến mất thì hoảng lắm, vội vàng phái người đi tìm. Tìm tới tìm lui cũng không thấy người đâu, chú định điều động binh lính mở rộng lục soát thì gia nhân trong nhà báo đã tìm được Thuỵ Khuê đang bị lạc trong một cánh rừng. Thuỵ Khuê vì muốn sớm ăn bánh nên đã mạo hiểm đi tắt, xuyên qua đường rừng hiểm trở.
Cô chú tìm được người thì vừa mừng vừa bực. Mừng vì em vẫn an toàn, mấy ngày đi lạc, Thuỵ Khuê sống được là nhờ đám quả dại hái bừa ven đường. Số em may mắn, không động phải quả nào có độc. Mừng nhiều, bực cũng không kém. Lần đó, chú tôi gần như đã nổi cơn thịnh nộ, chẳng những cấm túc mà còn phạt roi, Thuỵ Khuê phải nằm trong phòng gần một tháng mới có thể đi lại bình thường.
Cũng chỉ được một thời gian, sau đó, Thuỵ Khuê lại ngựa quen đường cũ, lại tiếp tục trốn nhà đi theo miếng ăn. Cô chú thấy nhiều cũng đành chịu thua, sau nhiều ngày thảo luận, cô quyết định dùng của hồi môn, xây đường lớn cho Thuỵ Khuê tiện đi lại.
“Những người dân ở nơi đó…” Tôi chỉ vào con đường đang đi xuyên qua bờ ruộng, hỏi: “Sao họ có thể dễ dàng giao đất ra?”
Xưa nay, sinh mệnh của nông dân gắn liền với những mảnh ruộng, họ thà chết chứ quyết không chịu chuyển đi. Cô chú đã xử lý được vấn đề này, tôi đi dọc đường mà không thấy ai nằm ăn vạ đòi đất.
“Làm gì có chuyện đấy.” Hoành Sóc ngáp một cái, trả lời: “Tất nhiên là họ không dễ dàng giao đất rồi.” Em vén rèm, chỉ vào một gò đất trống: “Có rất nhiều kẻ gan lỳ, nhưng chỉ cần trả giá đủ cao thì ai cũng sẽ chuyển đi thôi. Những kẻ không đi thì sẽ như vậy.”
Tôi phóng mắt theo ngón tay Hoành Sóc, bật cười. Người xung quanh đều nhận tiền rồi đi hết, kẻ ngoan cố muốn ở lại, muốn đòi giá cao hơn, chắc chắn sẽ không nhận được gì. Đất ruộng đã biến thành đường, ngày ngày ngựa, xe tấp nập, cây lúa có muốn cũng chẳng mọc nổi, sau cùng, bọn họ chỉ đành bỏ đất mà đi.
Tôi hỏi tiếp: “Lấy người đâu mà xây?”
Hoành Sóc đáp tỉnh bơ: “Thì thanh niên trai tráng thôi.”
Trông tôi có vẻ kinh ngạc, em cười lớn rồi nói tiếp: “Không phải như cậu nghĩ đâu.” Hoành Sóc nói rồi dừng lại, đưa tay vạch một đường ngang cổ: “Nếu thực sự ép dân lao dịch, đám lắm mồm ở kinh đô nào chịu tha cho cha ta. Những người tình nguyện tham gia sẽ được cấp nông cụ lao động và giảm sưu trong vòng ba năm, lợi ích đủ lớn thì người ta sẽ kéo đến thôi mà. Tất nhiên, tất cả tiền bạc đều từ của hồi môn của mẹ ta, không động đến một đồng của vị trên ghế rồng kia." Em nhếch mép: “... ông ta chẳng có lý do gì để ngăn cản một vị thân vương xây dựng đường sá trên đất phong của họ cả.”
Tôi gật đầu. Mặc dù nguyên nhân xây đường có phần buồn cười, nhưng lợi ích mang lại là vô cùng lớn. Con đường này không chỉ rút ngắn thời gian đi chuyển, mà còn giúp thúc đẩy giao thương, từ sáng tới giờ, tôi đã lướt qua rất nhiều thương lái chở theo hàng hoá đến mua bán. Trăm lợi mà không hại. Thực ra là vẫn có hại, nhưng tôi nghĩ, với khả năng của chú, đây chắc chắn sẽ không phải là vấn đề gì lớn.
Bình luận
Chưa có bình luận