11
Ông nhăn mặt, ghê tởm trước mùi thịt rữa nát và lá cây thối hoẵng của bàn tay tỏa ra trong lúc lấy một cái khăn tay để cầm bàn tay Sophia lên, bỏ nó vào túi vật chứng kín, loại thường dùng của mấy tay khám nghiệm hiện trường, kéo dây zip khẽ khàng rít lên, rồi gài vào móc ở bề trong của áo ghi lê xám ông mặc. Sau đó tới chiếc điện thoại bể nát, thứ cũng được bỏ vào túi vật chứng riêng – quy trình tương tự. Những quy trình thường thức của tổ khám nghiệm hiện trường mà ông đã quan sát từ thời làm cảnh sát điều tra. Matthew hít thở sâu, cố bình tĩnh lại sau khi chứng kiến thêm một hiện tượng quái đản mà ông chưa từng thấy, nghĩ rằng có lẽ hầu hết cũng chẳng ai thấy trên đời. Dường như ông đã bị ma quỷ dẫn đường chỉ lối để tìm ra bàn tay này. Mọi thứ đều được sắp đặt quá hoàn hảo. Chiếc điện thoại giấu sau bãi cỏ gần bờ suối, dễ tìm thấy một cách đáng ngờ dù cảnh sát khu vực và nhiều người dân tìm kiếm xung quanh. Có khi chúng vẫn đang theo dõi ông từ xa và sắp đặt chuyện này. Đúng rồi, chắc chắn là do đám dân trong thị trấn đó.
Matthew cẩn thận liếc nhìn xung quanh – tim chậm rãi tăng nhịp – nhưng chẳng có ai cả. Nếu chúng không biết và không thấy ông đang ở đâu thì làm sao đạo diễn cái trò nóng lạnh xa gần chết tiệt đó được chứ? Không thể. Chắc chắn không.
“Ra đi lũ khốn! Tao đang nằm trong tay chúng mày rồi đây.” Ông nói lớn. Đáp lại lời ông là tiếng cú vang dội trong ánh chiều tà. Matthew ngạc nhiên nhìn bầu trời, giờ đây nó là sự hòa huyện bởi màu tối của màn đêm, sắc vàng của hoàng hôn và màu xanh của ban ngày, tưởng như đang lạc vào một thế giới vô thực. Khi ông nhận ra sự chuyển giao giữa ánh sáng và bóng tối trong chu kỳ vòng quay mặt trời và mặt trăng, nó khiến ông ngạc nhiên khôn xiết, tới mức không thể quay đi nơi khác mà chăm chú vào cái kỳ quan rùng rợn này – tưởng chừng thời gian đang trôi qua vô tận. Chưa được dăm phút, sắc xanh đã dần đậm hơn, biến mất, hóa thành màu tím của đêm tối kết hợp với ánh vàng sẫm bệnh hoạn tới mức Matthew cảm thấy như đang tròng trành trên du thuyền giữa biển khơi, bụng sôi lên tựa đánh vật, muốn nôn mửa khi nghĩ tới những gì đã trải qua. Bàn tay móc ở bề trong áo nhẹ nhàng vỗ vào người ông, ngay bên dưới phần ngực trái. Cảm giác như thể nó đang chuyển động, các ngón tay khều vào người Matthew, trêu đùa. Điện thoại rung lên. Ông vạch áo ghile ra và nhìn chúng, chẳng có gì cả. Bàn tay xanh loét, rữa nát, các móng tay đỏ tới mức rùng rợn, chẳng rõ chất sơn được làm từ gì
(MÁU NGƯỜI?)
và cái điện thoại tan tành do bị bắn vào hàng loạt phát đạn. Chẳng có gì cả... Nhưng rồi cảm giác kinh tởm về bàn tay, về bầu trời phi thực, về dị giáo, về việc ông giết người, chúng vẫn còn đó, kết hợp lại, tạo thành một màn sương đen u ám bủa vây tâm trí, khuấy động hệ thống tỉnh táo và thăng bằng của Matthew giữa thực tại phi thường.
Ông biết có gì đó rất quái dị nhưng không thể giải thích được cho mọi chuyện đang diễn ra, thế là ông đổ mọi trách nhiệm lên đầu đám ở thị trấn. Tất cả đều là dàn xếp. Hiển nhiên việc đó thật không khôn ngoan. Quá thiên kiến và cảm tính, nhưng không còn cách nào để giải thích nữa cả. Đó là do đám dân trong thị trấn và ông đang nhảy múa trong lòng bàn tay của chúng. Có khi do cả người phụ nữ Grimsby kia cũng là một mảnh ghép cho tấn kịch này. Những gì bà ta thể hiện cũng chỉ là giả dối. Có thể thức ăn và nước uống của bà ta có chứa chất gì đó tạo ảo giác nên đầu óc ông mới chập cheng nhảy múa như thế nào. Matthew nhìn những cành cây tựa những bàn tay người, những bàn tay trắng nõn, móng sơn đỏ, năm ngón giơ ra cứng đờ. Gió thổi, chúng đung đưa tựa như Đỏ, Trắng và Xanh, sắc cờ Hoa Kỳ đang dập dờn. Hàng ngàn bàn tay đang vẫy chào ông và suýt nữa ông đã vẫy tay chào lại, những móng tay sơn đỏ tựa như những cái hốc tuôn ra dòng chảy màu đỏ, dòng chảy của máu, chảy xuống con suối bên dưới và hòa vào dòng sông, khiến nó hóa thành màu đỏ lợt, đậm dần đi, chỉ trong thoát chốc, tựa như có một gã khổng lồ vừa bị cắt cổ từ đầu nguồn, máu tuôn xối xả dẫn tới dòng suối bị vạ lây.
Rồi tâm trí Matthew quay ngoắt cùng với đầu ông khi không thể chịu nổi cảnh đó nữa. Ông cúi xuống đất, nôn mửa, nôn mửa và nôn mửa. Tất cả mọi thứ, đồ ăn đã phần nào đó bị axit dạ dày làm vón lại, chua loét, sau đó là mật xanh mật vàng cũng ra sạch. Nước mắt nước mũi lấm lem trên mặt. Mắt ông cay sè và lồi ra muốn lọt khỏi hốc. Matthew thở hổn hển và ngước lên, mắt vẫn nhắm, sợ rằng một lần nữa sẽ thấy bầu trời với các gam màu suy đồi, và rồi sự tỉnh táo, cái rào cản cuối cùng của ông sẽ chấm dứt.
Như một chiếc xe có khả năng dừng đột ngột khi đạp chân thắng và lập tức xoay theo hướng vô lăng, mũi xe đưa sang lối khác, ông dẫn dắt suy nghĩ của mình đi xa khỏi những thứ vô thường, hít sâu, thở ra, thở tới mức cảm giác như phổi dẹp thành quả bóng bay chẳng còn hơi khí, rồi hít sâu tiếp, lại thở ra. Ông vẫn nhắm mắt một lúc trong sự bất an, rồi can đảm mở ra, thấy rằng bầu trời giờ đang bình thường – màu vàng của hoàng hôn. Một sự bình thường trong thực tại phi thường khiến ông cảnh giác, bất lực lùi lại trước một thứ có thể điều khiển cả bầu trời, điều khiển cả thực tại. Có gì đó tà ác đang đứng sau tấn tuồng kịch bi hài này. Dòng sông vẫn xanh biếc, thậm chí còn đẹp đẽ dưới ánh chiều tà, những cành cây không còn là những bàn tay máu nữa. Thế nhưng... nó lại càng vô thực hơn. Vô thực đến lạ. Matthew cố tìm kiếm lý do cho cảm giác này, nhưng chẳng có bất cứ dấu hiệu nào. Có lẽ ông đang phát điên rồi chăng?
Matthew lại như vừa sực tỉnh khỏi cơn mê của những suy nghĩ hỗn loạn, quay ngoắt một lần nữa, tự điều khiển tâm trí của mình một cách trắng trợn để thoát khỏi những suy nghĩ mơ hồ đang dần khiến não ông trở nên chín tái như bị đặt trên một cái dĩa xinh xinh, rắc muối và bỏ vào lò vi sóng.
Ông nghĩ rằng hôm nay mình đã tìm được khá nhiều manh mối. Dù sao... ừ đúng rồi, dù sao cũng đã xế chiều, có khi ngày mai ông sẽ tìm được thêm gì đó... À không, thật chẳng khôn ngoan. Việc cần làm ở đây là ông sẽ trở về trọ, lấy chiếc Volvo và lái đi xa thật xa khỏi thị trấn. Matthew sẽ trở về Portland và đưa cho ông Dahmer thấy bàn tay của con gái mình, hoặc tiếp tục tìm kiếm với hy vọng quá mong manh, gần như vô vọng. Liệu ông Dahmer có chấp nhận con gái mình đã chết chỉ với bàn tay này? Matthew tự hỏi và bước đi dọc theo con sông. Ông biết con sông này, chắc vậy, Poliells hay Partorells gì đó, chỉ cần đi theo hướng mặt trời lặn là dần sẽ ra khỏi khu rừng. Nó cắt qua một con đường cùng cái cầu nhỏ bằng bê tông bắt ngang, cái cầu mà ông đã chạy qua trong lúc lái xe về phía thị trấn.
Đây không phải là rút lui vì sợ hãi. Chỉ đơn giản là sự thật trần trụi về sự bệnh hoạn của thế gian, của việc con người cũng có những kẻ điên cuồng và muốn giết ai đó vì lòng tin hoặc đơn giản là vì ghét. Những cuộc đấu tố phù thủy tại Salem hay Thập Tự Chinh... Có lẽ Matthew bị ảo giác. Có thể ông vừa giết xong một người và kinh hoàng tới mức bị tâm thần, ảo tưởng về việc nghe thấy tiếng của Sophia và ông Dahmer bên kia điện thoại. Hoặc có thể đó chỉ là một trò ác của lũ tà giáo hòng dọa ông biến khỏi khu rừng này. Ông sẽ biến khỏi đây, chắc chắn rồi. Biến khỏi đây đúng theo ý muốn đám khốn kiếp quái đản đang theo dõi ông từ đâu đó mà ông không biết.
12
Matthew vui mừng khôn xiết khi thấy chiếc cầu bắt qua con sông và lối đi bằng đất mềm với những viên sỏi nhỏ nhô lên một phần tựa răng người chiều hôm trước ông từng lái xe. Ông chạy khỏi lối đi dọc bờ sông, một cảm giác trẻ con trỗi dậy, cái cảm giác mà người ta hay nghĩ rằng nếu bỏ chạy vì sợ hãi thứ gì đó thì nó đang bám sát ngay sau lưng. Ai đó đang rượt đuổi đằng sau ông, vươn tay với con dao găm khắc dòng chữ Blut und Ehre!, hoặc với khẩu Luger kè kè vào gáy, hoặc mấy cái vuốt nhọn dài từ sâu trong những cơn mộng mị bị săn đuổi bởi Kẻ Cắt Xẻo Tại Springwood. Dường như nó bốc lên mùi thuốc súng, tiếng kêu ken két của kim loại ma sát kim loại, hoặc mùi nhựa cháy của xăng dầu bén lửa. Nó là tập hợp của mọi cơn ác mộng mà ông đã biết. Ông càng chạy nhanh hơn, mồ hôi túa ra như tắm, răng nghiến lại tạo thành tiếng rợn cả óc. Khi tới được chân cầu, Matthew quay lại, tim đập thình thịch tới mức có thể nghe và cảm nhận được. Con đường ông vừa chạy chẳng có gì cả. Một chiếc lá khẽ đung đưa theo cơn gió, rơi xuống mặt suốt và trôi đi tựa như thuyền giấy. Ông thở phào nhẹ nhõm rồi đi tiếp dọc theo con đường vắng tối tăm để trở lại thị trấn quái quỷ đó. Khi tới nơi, ông vui mừng vì bà chủ, bà Daphne Grimsby vẫn còn ở đó với cái đèn Davy tỏa rạng trong tay tưởng như đang ở một thế kỷ nào đó thuở xa xưa. Ông thậm chí không còn ngờ vực bất cứ điều gì về bà ấy sau khi thấy gương mặt xanh tái cùng đôi môi tím bầm của bà vì sợ hãi. Dưới ánh đèn dầu nhập nhoạng của ban ngày dần tàn và chiếc váy ngủ trắng, trông bà như một người đang tìm kiếm sự cứu rỗi của thế giới dần mục nát cùng tiếng thở dài rệu rã, dù cho bà lành lặn chẳng một vết thương, chẳng có dấu hiệu của sự tra tấn hay bức hại.
Bà vừa đi vừa chạy tới ông, đôi mắt đảo tới đảo lui như rang lạc, dường như sợ rằng sẽ có một ai đó với khẩu Kar98k trong tay, lưỡi lê nhọn tới mức có thể đục cả đá trồi ra từ dưới lỗ đạn nhào tới.
“Tôi không thể chịu nổi nữa, mang tôi rời khỏi đây. Làm ơn thưa ông Goldman, hãy mang tôi khỏi chỗ này hoặc họ sẽ giết tôi mất.”
“Được, nếu bà muốn thế.” Ông đáp, giọng nghẹn ngào vì đã thấy một người bằng xương bằng thịt sau trải nghiệm khủng khiếp nơi bờ suối.
Họ leo lên chiếc Volvo của Matthew, ông khởi động chiếc xe cũ kỹ, động cơ bốn thì lập tức kêu gừ gừ như âm thanh trong họng một con hổ đang nằm thư giãn, rồi đạp ga, tức tốc lái xe khỏi thị trấn. Khi Matthew quay lại, ông thấy lão già và gã cảnh sát trưởng với ánh mắt tối tăm đang nhìn mình. Cái đèn dầu lão già cầm hắt lên gương mặt khiến chúng như vừa bước ra từ địa ngục.
Ông đạp thắng.
“Chuyện gì vậy?” Bà Grimsby hoảng hốt hỏi, “Sao ông không chạy nữa?”
“Tôi muốn dành tặng một món quà cho những người bạn mới quen.” Dù vẫn còn nhộn nhạo trong bụng vì nỗi sợ vô hình, ông cười khùng khục với niềm hân hoan tột cùng khi nói.
Matthew mở cửa sổ và quay ra đằng sau, ngón tay giữa bật lên khỏi nắm đấm, hướng về phía hai kẻ khốn kiếp đứng bên góc của căn nhà với vết nứt kéo dài. “Chết mẹ chúng mày đi, lũ khốn kiếp ấu dâm bệnh hoạn!”
Rồi ông lái tiếp, cười lớn. Cả bà Grimsby cũng cười. Cười một cách sảng khoái như thể đã lâu rồi bà ấy không được cười như thế này. Tiếng cười của bà đã bị kìm nén quá lâu bởi thị trấn quỷ quái đó. Bà cười tới ho sặc sụa, nước mắt nước mũi tèm lem trên mặt nhưng vẫn còn phá ra trong niềm vui hớn hở như vừa giật tung được sợi xích. Matthew đạp mạnh chân ga, xe chạy ngày càng nhanh cho tới khi quay trở lại được xa lộ liên bang. Ông ân cần lấy một cái khăn từ hộc đựng đồ và đưa cho bà Grimsby khi thấy bà đã dần ngừng cười.
“Cám ơn, ông thật tử tế.” Bà lấy và lau nước mắt nước mũi.
Trong lúc đó, Matthew lấy ra tấm bản đồ và tìm đường trở về Portland. Trên đường đi ông gọi cho ông Dahmer và thông báo tình hình con gái của ông ấy. Ông Dahmer sụt sịt mũi trong lúc nghe chuyện, rõ ràng đang kiềm nén tiếng khóc thương dành cho đứa con gái đã không còn. Ông ấy hứa rằng sẽ trả đầy đủ khoảng tiền, và thêm một khoảng hai mươi ngàn đô vì đã dấn thân vào nguy hiểm sau khi Matthew trở về và đưa ông ta di vật của con mình. Matthew nghĩ rằng mình sẽ phải tìm lý do giải thích cho cái điện thoại bị bắn bể nát, hoặc chỉ đơn giản là không nói cho ông Dahmer biết về nó. Và ông đã chọn cách sau. Trong lúc đang đậu xe tại một cái cầu trên Đại lộ New York ở Đông Bắc thuộc thủ đô Washington, ông quăng điện thoại của Sophia xuống dòng sông Anacostia.
“Tạm biệt nhé, điện thoại yêu dấu!” Matthew hơi rùng mình trong lúc gào lên.
“Ông có vẻ đang hưng phấn quá độ đấy.” Bà Grimsby mỉm cười, bước tới đứng cạnh, mái tóc điểm vài sợi bạc được búi lên đầu. Dường như bà đã phần nào lấy lại sự tỉnh táo và sức sống sau khi thoát khỏi thị trấn Alban.
“Có gì đâu nào!” Ông thét lớn qua cơn gió thổi, gương mặt như trẻ ra rất nhiều. Lúc này ông cảm giác như mình có thể làm mọi thứ nếu muốn. “Chỉ là quăng bớt một mớ phiền phức thôi mà.”
Cả hai cùng cười vang rồi hôn nhau trong ánh sáng của buổi sớm. Họ thực sự đã hôn nhau, và điều đó khiến Matthew vừa ngạc nhiên, vừa bồn chồn lo lắng không rõ lý do. Matthew tiếp tục lái xe trở về Portland.
Ông tham gia tang lễ của Sophia Dahmer và chia buồn với ông Dahmer về cái chết của cô con gái. Ít ra thì ông ấy cùng với cha mẹ của lũ trẻ còn lại không còn trăn trở về việc con họ còn sống hay không.
Matthew nhận thấy còn vài điều kỳ quặc, nhưng ông không nghĩ nhiều. Giờ đây ông đã có một trăm hai mươi ngàn đô. Một số tiền không lớn, nhưng cũng không nhỏ.
Matthew và bà Daphne Grimsby đã đám cưới với nhau, có cả sự tham gia của ông Dahmer với lời chúc phúc, thật quý hóa làm sao!
Cả hai không thể có con vì đã quá tuổi sinh đẻ – hay đúng hơn là bà Daphne đã quá tuổi.
Matthew không cảm thấy phiền lòng vì chuyện đó. Họ quyết định nuôi một con chó cái thuộc giống Labrador Retriever rất dễ thương mà họ đặt tên là Patty.
Trong lúc đang ngồi tận hưởng tuổi trung niên và chú chó đang chạy nhảy ở bãi cỏ, Matthew cắn một góc sandwich cá ngừ mà bà Daphne Goldman đã làm cho ông. Ôi Daphne Goldman, cái tên của bà thật hợp với họ của ông làm sao. Nghe như thể một vầng thơ, một tiếng nhạc vừa du dương như đàn hạc, vừa có phần hùng hồn vang vọng tại nơi sân khấu Opera. Suy nghĩ có vẻ hơi thái quá, nhưng ông thích như vậy. Matthew xoa đầu Patty khi nó chạy lại gần, lè lưỡi thở.
“Hai mươi năm rồi đấy, kể từ ngày tôi gặp bà.”
“Ông nói gì như ông già sắp xuống lỗ ấy.”
“Tôi cũng hơn bảy mươi rồi còn gì.” Matthew cười ha hả, suýt làm rơi hàm răng giả của mình. “Rồi ai cũng sẽ chết thôi.”
“Ừ, rồi ai cũng sẽ chết.”
Matthew run rẩy quăng cái gậy để cho Patty bắt lấy. Cái gậy Patty vừa nhặt được từ một bụi rậm.
“Thật sự tôi đã rất sợ.” Matthew khẽ thì thầm.
“Sợ? Sợ chuyện gì?” Daphne hỏi.
“Lúc ở trong khu rừng. Tôi kể bà nghe rồi đó.”
Bà cười khúc khích. “Ừ, nó đáng sợ thật.”
“Nhưng tôi đã thoát được.”
“Thoát? Thoát gì?” Vợ ông đột nhiên hạ giọng.
“Thì thoát khỏi khu rừng đó.”
“Đâu có,” Daphne cười khúc khích, “Ông vẫn ở đó mà.”
“Ý bà là s...” Matthew gào thét khi thấy bên cạnh mình là gương mặt thối rữa của Sophia. Mắt bên phải của cô trắng đục trong khi bên trái là một cái hốc đầy giòi nghoe nguẩy. Vài con búng lên người Matthew. Sophia cười lớn, giọng cười hiểm độc tới mức báng bổ, đục thủng màn nhĩ bất cứ ai nghe thấy, bàn tay cô lao tới bấu các móng tay đỏ lòm vào mặt Matthew. Đám giòi từ mắt Sophia búng lên mặt ông, từng con chui vào trong vết thương mà móng tay cô để lại.
Matthew cảm thấy chúng chạm vào phần nhãn cầu trong của mình và đục ra. Ông nhìn thấy rõ một cách kỳ lạ cái sinh vật mình dây trắng muốt đang uốn éo trước khi mọi thứ chìm vào màu đỏ kinh hoàng.
13
Matthew thét lên một tiếng hãi hùng khi tỉnh dậy và thấy mặt mình đang úp xuống nền đất lạnh lẽo ngay cạnh con sông tịch mịch yên ả. Ông nhìn khu rừng dày đặc mạng lưới các thân cây cao vút trong màn đêm tăm tối tới rợn người. Chẳng có đom đóm, chẳng có côn trùng đêm ngân vang. Tiếng vỗ cánh khiến ông la toáng lên và nhìn thấy một con cú đã hạ cánh đậu trên cành cây cao với đôi mắt vàng vọt phát sáng. Nó kêu, tiếng rung rúc như thể đang gọi mời ma quỷ từ bóng tối, rồi lại vỗ cánh bay tiếp, biến mất phía sau những tán lá xum xuê.
Não ông tê dại mất một lúc, tưởng như đã bị nhét vào tủ đông rất lâu.
Rồi có gì đó... ông cảm nhận được mình đã quên gì đó... Tựa một cơn sóng thần cao ngàn mét ập tới, ký ức của giấc mơ lướt qua đầu khiến Matthew quỵ người và nôn thốc nôn tháo ra mật vàng một lần nữa, dường như ruột đã chạy lên tới cổ họng khiến nó nghẹt đi. Trước đó ông đã nôn mửa mọi thứ, gồm cả phần ăn đã vón lại của Daphne Goldman... không, Daphne Grimsby đã nấu cho ông ăn. Vị của nước mật đắng nghét, khó chịu đeo bám trong miệng Matthew. Bụng ông quặn đau phản đối việc ông đã tra tấn nó tận hai lần hôm nay. Ông choáng váng trước sự thật khủng khiếp. Mọi thứ, tất cả mọi thứ chỉ là một giấc mơ. Cái giấc mơ vừa hạnh phúc mà cũng vừa kinh hoàng. Những hạnh phúc trong cơn mộng mị đó được trả lại bằng nổi tuyệt vọng và thống khổ của Matthew khi ông tỉnh giấc. Cảm giác như thế giới đang đảo lộn, đầu óc bị bão tố cuốn lấy và quăng quật như một con búp bê sứ, quăng vào tường và vỡ tan tành thành từng mảnh.
Matthew cố sức không phát ra tiếng gào thét của nỗi khổ đau tột cùng, như thể nó đang xé nát lục phủ ngũ tạng ông, ngâm trái tim ông vào bồn axit đậm đặc tới mức rã ra thành cát bụi. Ông cảm tưởng bản thân đã già cỗi mục rữa, thời gian trong tâm trí ông trôi qua không chỉ hai mươi năm, mà là cả ngàn năm cực hình. Thế giới đang lụi tàn, Trái Đất nóng lên, núi lửa phun trào. Ông cảm giác như có lửa đốt, thiêu rụi toàn bộ cơ thể mình. Đó là ngọn lửa địa ngục từ dưới vực sâu của Thần Khúc Dante. Nỗi tra tấn này còn hơn ngũ mã phanh thây, hơn cả trinh nữ sắt, nĩa dị giáo hay cả trò tra tấn giọt nước tử thần. Tưởng như Matthew đã chịu đả kích tới mức phát điên, sau đó cơn đả kích khiến ông tỉnh lại, rồi phát điên, tỉnh lại,... một vòng lặp không hồi kết, cho tới khi Matthew thấy hình ảnh phản chiếu dưới mặt hồ, tóc ông trắng xóa, gương mặt đầy nếp nhăn mới mẻ hằn sâu hơn cả khe vực của những ngọn núi cao nhất và già nhất. Ông đưa tay, dùng đầu ngón tay bóp vào má và kéo mạnh, làn da trở nên già cỗi và nhăn nheo kéo ra như một miếng bánh dẻo mềm. Chỉ trong chưa đầy một tiếng, dường như Matthew đã già đi gần nửa đời người. Ông nghĩ tới nỗi đau khổ khi giấc mơ hạnh phúc chỉ là viễn vông mộng tưởng, bám lấy nỗi đau khổ đấy, bấu víu nó cũng như căm thù nó để tránh bản thân rơi vào tuyệt vọng và điên dại một lần nữa.
Sau khi nỗi khổ đau tột cùng qua đi, Matthew đứng dậy với đôi chân còn run rẩy và nhận ra một cảm giác mơ hồ đang bao trùm ông. Có thứ gì đó khiến bụng ông nhộn nhạo và mặt gai gai, như thể hàng trăm ngàn thứ gì đó
(lũ dòi trắng đục)
bò trườn bên trong. Matthew chạm tay lên mắt phải, và rít lên vì cơn đau dù chẳng có con dòi nào đục thủng nhãn cầu. Não ông lạnh buốt và cảm giác mát mát bao quanh đầu óc như thể adrenaline được tiết ra một cách mạnh mẽ và dư thừa, làm các dây thần kinh kích thích tới mức ông lo rằng mình sẽ phình động mạch và chết. Nhưng không có gì ngoài cái cảm giác mát mát gợn gợn đó. Nó đang mơ hồ kêu gọi, dẫn dắt ông. Matthew không thể giải thích, nhưng ông biết vậy và không thể chống lại sự cám dỗ đó dù nỗi sợ trong thâm tâm có mạnh mẽ cỡ nào.
Rồi ông bước đi trong sự tức giận cùng cực lẫn nỗi sợ hãi tột độ trước thứ mình sẽ phải đối mặt mà chẳng có cơ hội sống sót.
Bình luận
Chưa có bình luận