4
Ông mặc quần áo vào rồi xuống dưới trọ, khi đứng trước cửa phòng và gài dây nịt, Matthew ngó trở lại cái tủ, nó đang mở hé như thể thực sự có thứ gì đó đã quan sát ông suốt cả đêm. Lúc nãy nó có mở không nhỉ? Ông nhớ mình nhìn lướt qua và thấy nó đóng, và giờ nó mở... Có không? Matthew tiếp tục nhìn chằm chằm vào cái cửa. Dường như trong một thời điểm nào đó ở quá khứ, cửa tủ đã bị mở một thời gian và cánh cửa xệ xuống, nên giờ dù đóng chặt, một lúc sau nó vẫn hé ra, cạnh tủ dưới hơi hạ xuống. Có lẽ vậy chăng? Hay đúng là có gì đó xuất hiện khi ông không chú ý tới nó? Tại sao khi nó mở hé ra, chẳng có một âm thanh ken két của bản lề mòn vẹt? Tối qua khi ông đi tới đi lui để kiểm tra, nó có phát ra âm thanh hoen gỉ, ông nhớ rất rõ... Cơn ớn lạnh tựa viên đạn bằng băng bắn từ thắt lưng phía sau của Matthew thẳng lên hạch hạnh nhân của não khiến ông ngừng thở một nhịp.
Nỗi thôi thúc kêu gọi ông bước tới, kiểm chứng suy đoán về cánh cửa tủ tại sao mở hé, nhưng cùng với đó là cả nỗi sợ âm ỉ như thể đằng sau cái tủ là một con rắn hổ mang to cộ, hoặc một con sói máy, chờ đợi nhảy xồ ra với những cái vuốt nhọn hoặc mấy cái răng cưa sáng quắc với mùi xăng dầu nồng nặc, hoặc mùi sắt gỉ pha lẫn máu tanh. Matthew quay mặt, nơi khóe mắt, ông thấy cửa tủ dường như di chuyển, dần đóng lại
(Kétttttttt)
nhưng ông không đủ can đảm để quay sang nhìn mà bước ra hành lang, đóng cửa phòng, run rẩy cầm chìa khóa tra vào cửa trong trạng thái đầm đìa mồ hôi trên trán và lòng bàn tay. Matthew đánh rơi chìa khóa, nó rơi xuống đánh cành cạch dưới sàn nhà khiến ông suýt thét lên, thay vào đó, ông dường như nghe ra có tiếng gầm gừ đằng sau cánh cửa. Có lẽ nó xuất hiện rồi. Có lẽ cái thứ quái thai trong tủ quần áo đã bước khỏi đó, trở nên “thực” và chuẩn bị nhào tới ông, phả làn hơi độc hại cùng âm thanh rít lên khi các bánh răng quay đều trong cơ thể. Matthew nhặt chìa khóa lên, suýt đánh rơi lần nữa và dộng vào ổ tay nắm tới mức ông nghĩ rằng đầu chìa có thể gãy. Nhưng nó không gãy, và Matthew vặn.
CẠCH!
Âm thanh dường như vọng to gấp bội, tựa như đang đứng trong một hang động với mạng lưới các lối đi hẹp khổng lồ. Chẳng có gì cả. Chẳng có con quái vật nào mở tung hay đâm các móng vuốt của nó xuyên qua cửa. Chỉ là chút tưởng tượng ngu ngốc của ông mà thôi. Một lão già lớn tuổi sợ hãi như một đứa con nít. Matthew cảm thấy xấu hổ, nghiến răng rời đi và lau mồ hôi trên trán bằng ống tay áo. Dường như cả hạ bộ lẫn nách của ông cũng đầy mồ hôi rồi, và nó thực sự khó chịu.
Trong lúc bước xuống tầng dưới, ông mông lung suy nghĩ về cơn ác mộng kinh hoàng đêm hôm trước. Giấc mơ chết tiệt tại một nơi cũng chết tiệt nốt, Matthew nghĩ khi thấy mạng nhện trên vách dốc của mái cầu thang đã được giăng một cách hoàn hảo và thở dài trong lúc bước xuống từng bậc với tiếng ọp ẹp. Thật nhảm nhí, chỉ là mấy cái nỗi sợ vô căn cứ và trẻ con, người lớn mà thế đó. Bị một thứ trong một tựa game nhảm nhí nào đó hù dọa. Có vậy mà đã muốn đái ra quần rồi. Nếu Donald Jackson mà cầm một khẩu súng xuất hiện nơi ngưỡng chân cầu thang thì chắc mình đứng tim mà chết cho xem.
Nơi ông thuê phòng là một cái nhà trọ bé như lỗ mũi kiêm quán ăn nhỏ ở tầng trệt. Nó khiến ông nhớ tới những bộ phim cao bồi viễn tây dù vùng này chẳng có chút gì mang âm hưởng bang Texas hay Arizona.
Matthew nhìn người dân ngồi xung quanh các bàn ăn đa số là cánh đàn ông vạm vỡ, mặc quần jean, áo sơ mi hoặc áo phông giản đơn trong tiết trời mà mùa Hè gần qua, nhường chỗ cho mùa Thu, thế nhưng hôm nay trời chẳng lạnh mấy. Một số người còn đeo dây nịt lưng đựng dụng cụ chuyên dụng cho công việc. Một thị trấn khai thác, chà, rồi nó cũng sẽ trở thành thị trấn ma như bao thị trấn khai thác khác. Tại sao lũ trẻ lại tới đây vào dịp hè nhỉ? Vẫn chẳng ai rõ lý do, ngay cả cha mẹ chúng cũng chẳng biết.
Matthew ngồi ở quầy và kêu một suất bánh mì nướng bơ cùng thịt xông khói và trứng rán. Ông ngồi ăn, đầu óc mơ màng nghĩ về khu rừng cách đó chỉ gần trăm mét. Đám trẻ đấy đã dừng xe ở khu trọ này... và vào rừng để cắm trại. Ngẫu hứng ư? Đột nhiên ông nhớ tới những bộ phim kinh dị, rồi gạt phắt ý tưởng khỏi đầu vì nó quá nhảm nhí, như cái cách ông bị trí tưởng tượng dọa hoảng vía lúc nãy.
Matthew quyết định hỏi bà chủ quán về lũ trẻ bà ấy trả lời với giọng có phần e dè. “Trước đó cũng có vài sĩ quan tới hỏi y như ông vậy.”
Matthew cũng đã tìm hiểu thông tin từ nhiều nguồn – hầu hết đều vô dụng. “Và họ chẳng tìm thấy gì?”
“Đúng vậy.”
“Họ bảo rằng đám trẻ có lẽ đã rời khỏi khu rừng này, dù lúc đó chiếc xe vẫn đậu ở khu trọ của bà. Điều đó cho thấy ngược lại.”
“Tôi không rõ kết luận của cảnh sát, nhưng nói chung thì sau một tuần tìm kiếm, họ đã rời đi cùng chiếc xe của đám trẻ đó. Chắc nó được trả về cho khổ chủ. Tôi đoán vậy” Nhưng bà ta không đợi Matthew trả lời. “Chúng cũng chưa từng trở lại thị trấn này. Tôi,” có một nhịp khựng lại như thể bà bị nghẹn đờm trong họng, “còn tưởng các anh đã tìm thấy chúng rồi.”
“Tôi là thám tử tư, không phải cảnh sát. Không còn nữa.” Ông gõ mũi nĩa vào mặt đĩa sứ, phát ra tiếng lạch cạch, có chút cay đắng trong giọng nói. “Bà nói đúng, cảnh sát không tìm thấy lũ trẻ. Nhưng cha của một trong số những đứa trẻ đó đã thuê tôi để tìm kiếm con ông ta.”
“Thật tội nghiệp.” Bà chủ vừa nói, vừa đẩy ly trà xanh ấm về phía Matthew. “Tôi từng lạc con mình nhưng tìm lại được ngay sau đó. Lúc đó tôi tưởng bầu trời sụp đổ rồi ấy. Cho tới khi chồng tôi cũng...” Bà ta nhắm mắt và hít một hơi rất sâu, sau đó nhìn Matthew bằng ánh mắt như thể một đứa trẻ vừa mất đi chuyến du lịch tới Disneyland vì cha mẹ bận việc đột xuất, rồi không nói gì nữa.
“Bầu trời đang vụn vỡ trên đầu người cha đấy.” Chẳng biết từ đâu mà câu nói này xuất hiện trong đầu ông. Có lẽ nó từ một quyển sách nào đó Matthew từng đọc. Ông suýt bật cười vì câu nói quá là văn vở.
“Ừ, nhưng...” Bà quay đi, giọng hơi ngập ngừng, “Tôi cũng nghĩ như phía cảnh sát. Có lẽ chúng đã đi lạc đâu đó, có lẽ... chúng chỉ đang tận hưởng kỳ nghỉ và không biết một đội cảnh sát đang điều tra mình. Ông cứ đợi đi, rồi một ai đó sẽ thấy đám trẻ y chang lũ đang được tìm kiếm trên tin tức đang lang thang tới Richmond hay thị trấn gần đó chẳng hạn. Mọi thứ rồi sẽ ổn thôi.” Bà cố gắng nói giọng bông đùa và mang ra món bánh kếp với siro lá phong thơm lừng.
Matthew mỉm cười với bà trong lúc cầm dao và nĩa, cắt một miếng bánh kếp.
Bà ta nói dối, ông nghĩ, rồi đưa lên miệng, vị siro xộc vào mũi, ngọt ngào, vị bánh vừa miệng, thơm lừng. Một bà đầu bếp nấu ăn ngon đang nói dối.
5
Và không quá lâu để Matthew biết rằng cảm nhận của bản thân đã chính xác – bà chủ trọ là một kẻ nói dối. Mười lăm phút sau, Matthew đang đứng cạnh một cửa hàng vật liệu công nghiệp, nhìn vào lối đi xuyên thẳng qua bên kia thị trấn, đường Chính (Âm tiết phát ra trong đầu ông nghe đầy mỉa mai), tại nơi các thân cây cao lớn. Một cái làng nhỏ xíu, gọi vậy đúng hơn, còn chẳng có khu hành chính. Ông vừa lấy điếu Marlboro khỏi hộp thuốc và châm lửa, thả một tầng khói trắng mờ trước mặt thì bà chủ trọ đã đứng sau lưng ông từ đằng xa, ngay cửa ra vào của nhà trọ, ngập ngừng như thể muốn nói gì đó. Matthew nhìn thấy bóng hình bà qua tấm gương bám bụi của một cửa hàng tạp hóa. Ông nhếch môi nhẹ, đảo mắt về phía những thân cây cao của cánh rừng già cỗi, đứng yên, im lặng như thể đã bất biến sau hàng ngàn năm trôi qua.
Tối hôm vừa nhận công việc truy tìm Sophia Dahmer, Matthew đã nghiên cứu tường tận mọi thông tin về khu rừng này, được rải rác khắp các mặt báo từ nhiều nguồn – công việc thực sự rất khó khăn. Một khu rừng già với nhiều vụ mất tích bí ẩn không rõ nguyên nhân, đa số là từ những người nơi khác đến để cắm trại hoặc khám phá. Các tờ báo nói về những vụ liên quan tới nó thường nằm ở trang gần cuối và chỉ có vài đoạn nhỏ, có khi còn chẳng ai lật tới các trang cuối của mấy bài báo huống chi tạo nên ấn tượng cho người đọc.
Nếu đây là một bí ẩn cần tránh nói tới thì rõ đám cảnh sát quận hoặc tại thị trấn này đang lấp liếm hồ sơ thông tin. Chắc chắn là có những cuộc tìm kiếm, nhưng chỉ là qua loa rồi xong và đưa ra những kết luận mơ hồ. Sau đó câu chuyện dần đi vào quên lãng. Ngay cả dân trong trấn cũng có gì đó rất kỳ quặc. Matthew để ý một số người nhìn ông bằng ánh mắt dò xét từ hôm qua và cả sáng nay trong lúc đang ăn sáng, nhưng khi ông nhìn tới thì họ quay đi chỗ khác.
Một thị trấn mờ ám. Dù ban đầu Matthew chỉ đặt nghi vấn vụ mất tích của đám trẻ và nhiều vụ khác có liên quan tới thị trấn này, nhưng giờ ông có thể khẳng định chắc nịt là chúng liên quan tới nhau.
“Thưa ông,” Có tiếng nói đằng sau.
Matthew quay lại và thấy bà chủ đang chạy hồng hộc tới, mồ hôi nhễ nhại trên trán. “Ông cần rời khỏi đây.”
Ông nhìn người phụ nữ có lẽ đã hơn bốn mươi, che giấu sự ngạc nhiên bởi câu nói đột ngột và khó hiểu của bà ta. “Tại sao?”
“Ông cần rời khỏi đây.” Bà ta gấp gáp nói và nhìn quanh quẩn như thể sợ ai đó sẽ thấy, “Tôi không thể giải thích được. Nhưng tôi mong ông sẽ rời khỏi đây. Cầu xin ông đấy!” Bà ta van nài, đôi tay giơ ra, những ngón tay dãi dầu sương gió, có một vết cắt còn mới, có lẽ bị thương trong lúc làm bữa sáng sáng này. Bà dường như muốn nắm tay Matthew, nhưng rồi chúng rút lại và xếp úp vào nhau ngay đằng trước.
“Tôi cần biết lý do cho chuyện này, thưa bà. Một khách hàng của tôi đang ngày đêm nhớ mong con mình và muốn tôi tìm cô ấy cho ông, thứ mà cảnh sát tại khu này không làm được.”
“Họ không làm được. Họ không thể. Không muốn.”
“Tại sao vậy?” Matthew kiên nhẫn hỏi.
“Là do...” Rồi bà ta sửng sốt nhìn qua khuỷu tay Matthew. Ông quay lại và thấy một lão già, khá già so với một thị trấn khai thác như vầy. Ông ta đang giữ đầu cái gậy chống để ngồi xuống băng ghế gỗ phía trước tấm gương mà trước đó Matthew dùng để quan sát bà chủ trọ.
“Tôi... tôi phải đi đây...” Bà ta nói, kiềm nén nỗi sợ nhưng bất thành, nó đang hiển hiện rất rõ bằng từng cơn run rẩy.
Matthew nhìn bà quay lưng bỏ đi rất nhanh, động tác hối hả trông như đang trốn chạy một điều gì đó khủng khiếp.
Rồi ông quay sang phía cửa hàng, thấy lão già đang nhìn mình bằng đôi mắt trợn lên như muốn xoáy sâu vào đầu ông, hoặc có lẽ là do Matthew tưởng tượng, bởi ngay sau đó lão già mỉm một nụ cười rất tươi, trông lão như trẻ ra mười tuổi là ít. Thậm chí lão còn vẫy tay chào Matthew. Ông cũng vẫy tay chào lại, mỉm cười dè chừng. Sau đó lão già đứng dậy chậm rãi, dùng cây gậy chống đằng trước một cách điêu luyện bước đi với vẻ nhún nhảy.
Matthew dõi theo lão già quái gở biến mất đằng sau góc khuất của một căn nhà.
6
Ông đi sâu vào thị trấn bằng con đường thẳng ở giữa và thấy rằng dân không nhiều. Các cánh mày râu đã đi làm việc, còn những người phụ nữ thì đang tới lui cùng một vài đứa trẻ. Mấy người phụ nữ thì giỏi che giấu ánh mắt dò xét, còn trẻ con thì không. Matthew vẫn tiếp tục đi, dù không nhìn thẳng vào bất cứ ai nhưng ông vẫn luôn cảnh giác cao độ.
Đồn cảnh sát trông như một căn nhà bằng gỗ dành cho dân cư, nếu không có tấm bảng ĐỒN CẢNH SÁT ALBAN và bên kia cửa sổ là các song sắt lấp ló thì hẳn Matthew đã bỏ qua và đi tiếp. Một người mặc cảnh phục đang ngồi trên ghế gỗ lắc lư có chân cong, dùng chân đầy để chiếc ghế lắc trước lắc sau, tay bên này cầm tách cà phê còn tay bên kia cầm bánh sừng bò.
Đối diện bên kia đường, vài phụ nữ ăn mặc kín cổng cao tường, nghĩa là váy xếp ly và mấy cái váy chấm bi dường như từ nhiều thập niên trước, đang ngồi nói chuyện tại một tiệm cà phê nhỏ tồi tàn với một cái ô che nắng trên đầu. Ông biết rằng họ đang theo dõi mình, một người lạ, một người ăn mặc khác với dân trong trấn. Ông cảm giác mình như thể một con cừu già què quặt bị dò xét bởi con mắt của những kẻ săn mồi. Matthew tiến tới vị cảnh sát đang ngồi trên ghế lắc lư. Ông nói về công việc của mình cho ông ta biết và họ trao đổi thông tin với nhau thẳng thắn.
“Chúng tôi đã tìm kiếm và tin rằng bản thân không bỏ xót thứ gì cả.” Gã cảnh sát trưởng nói trong lúc mút ngón tay sau khi tọng nửa cái bánh vào họng. Vừa nhai vừa nói, “Không bỏ xót thứ gì ý tôi là không có gì hết. Anh biết rồi đó, có thể chúng không ở trong rừng, hoặc đã lạc, đi quá sâu và không ai có thể tìm ra được nữa. Có khi tụi nó dẫm phải một đầm lầy nào đó, cố cứu nhau ra nhưng rồi kẹt chung, và thế là có Chúa mới biết tụi nó đang ở đâu. Khu rừng này rất lớn và hiểm trở, chưa kể là nhiều tuần trôi qua rồi thưa thám tử. Nếu lũ trẻ đấy không chết vì chìm xuống bùn lầy thì cũng bị súc vật ăn sạch từ thịt tới xương rồi. Chẳng lẽ phải đào hết mấy chục cái đầm lầy có lớn có nhỏ trong khu rừng này để kiếm chúng à?”
Matthew mỉm cười. “Tôi cũng nghĩ rằng việc đó là bất khả thi. Tuy nhiên, có lẽ tôi sẽ tìm được Sophia, ít nhất là một di vật nào đó để cha con bé có thể chấp nhận sự thật.”
“Ý anh là chúng tôi quá vô dụng nên không tìm thấy đám trẻ?” Trông ông ta như bị tự ái, mặt hơi đỏ lên. “Dù chỉ là một cây bút bi mà tụi nó làm rớt? Anh biết chúng tôi tìm mấy cái túi khoai tây chiên tụi nó ăn và xả rác chứ? Đó là những gì còn sót lại đấy! Ông chủ của anh có cần bỏ túi có enzim của con gái ông ta vào túi và nén khí trưng bày trong nhà không?” Giọng của gã cảnh sát trưởng hơi cao lên, có chút kích động khi nói câu cuối.
Sự hằn học của gã cảnh sát này khiến ông chú ý, may mắn là cơn phẫn nộ không bùng lên trong ông. “Không, ý tôi là các anh không may mắn. Như ông nói đấy, đây là một khu rừng lớn. Rất lớn.” Matthew mỉm cười, một nụ cười chiêu tài cong vểnh.
Gã cảnh sát nhíu mày, đôi môi hơi nhếch lên đầy mỉa mai. “Để tôi dẫn anh tới nơi người ta thấy đám trẻ bước vào rừng.”
“Cám ơn anh!” Lại một nụ cười chiêu tài nữa để đáp lễ.
Trong lúc bước đi trên đường, Matthew nhận ra mình đã không giới thiệu tên, và gã cảnh sát này cũng không. Việc đó khiến ông có chút không thoải mái, hay thậm chí là khó chịu. Cứ như thể dù có biết tên cũng chẳng để làm gì. Trong một số phim, người ta hay hỏi rằng “Người chết thì biết nhiều thứ để làm gì?” Nghĩ tới đó, Matthew càng cảnh giác hơn trong lúc bước đi.
7
Cả hai bước về phía cuối thị trấn, nơi bao quanh bởi hàng cây cao to, bên kia chúng là khu rừng âm u tĩnh mịch. Lúc đứng ở đầu thị trấn, Matthew thấy chúng chỉ là những thân cây bình thường, nhưng giờ khi tới gần thì mọi thứ đã khác đi rất nhiều. Ông cảm nhận có cái gì đó rùng rợn từ chúng, từ thứ chúng đang ẩn giấu bên trong. Bên kia giàn cây là một nơi mờ ám bị che đi hầu hết ánh sáng từ phía mặt trời.
Tiếng xào xạc chậm rãi vang lên thành một dàn đồng ca như thể rừng cây gọi mời khiến Matthew có chút nhộn nhạo trong bụng. Cái cảm giác ai đó đang theo dõi ông chợt xuất hiện một lần nữa, rồi biến mất, nhanh tới mức ông nghĩ đó chỉ là tưởng tượng. Suốt từ lúc tới đây, có vẻ ông đã tưởng tượng hơi bị quá mức. Cũng phải thôi, thị trấn này như bước ra từ một bộ phim kinh dị bí ẩn nào đó vậy.
Một lần nữa, thứ xúc cảm nguyên thủy từ thuở hồng hoang trong ông đang trỗi dậy. Đó là nỗi sợ hãi những điều mà ông không biết rõ. Matthew không nhận ra nỗi sợ ấy. Ông chỉ nghĩ đơn giản mình bị khó tiêu do món thịt và trứng chiên buổi sáng sớm.
Có lẽ vậy.
Mày đang tự dối lòng mình. Cái cảm giác kỳ quặc đó là nỗi sợ hãi. Cảm nhận nó rõ ràng hơn đi! Phải rồi, cái cảm giác lạnh toát sống lưng đó. Matthew đột nhiên muốn quay lại, bảo với tay cảnh sát trưởng rằng có lẽ ông sẽ kêu gọi một cuộc tìm kiếm khác, từ nhiều người không thuộc thị trấn, thậm chí là không thuộc quận này. Đây là một vấn đề mất tích liên bang, có thể liên quan tới buôn người hoặc thế nào đó. Tại sao cuộc điều tra lại hời hợt tới thế? À không, không cần nói. Nếu thực sự có gì đó đang ẩn giấu mà dân trong thị trấn mơ hồ biết được, hoặc thậm chí biết rõ, ông không nên nói ra ý định với gã đàn ông đứng cạnh mình vì rất có thể sẽ bị thủ tiêu.
Nhưng mà... Matthew đắn đo suy nghĩ cái sức cám dỗ từ phần thưởng mà ông Dahmer đã ghi trong hợp đồng. Thù lao của công việc là một trăm ngàn đô. Và nhờ vào số tiền đó, Matthew có thể trả số nợ bảy mươi ngàn do thua chứng khoáng. Dạo bữa công ty chứng khoáng bảo rằng nếu không trả nợ trong một tháng nữa thì họ sẽ siết nhà ông.
Chậc, thưa ông Goldman, chúng tôi rất tiếc về việc phải thông báo rằng căn nhà của ông sẽ thuộc về chúng tôi nếu ông không sớm trả số nợ đấy. Cái giọng xởi lởi cùng điệu bộ mỉa mai của tay nhân viên chứng khoán chạy tới chạy lui trong đầu, hơi lè nhè, tựa như một cuốn băng vừa được nhét vào máy phát và bấm chữ CHẠY khiến Matthew nóng cả mặt. Đó là căn nhà gom góp giữa ông và vợ, và ông sẽ không để cho lũ khốn nạn đó cướp mất. Cái lũ đầu đuôi trộm cướp đó. Chúng đừng có mơ!
“Nếu tôi không rời khỏi rừng sau một ngày, phiền anh thông báo rằng tôi đã mất tích, được không?” Matthew hỏi và quan sát tay sĩ quan.
Gã cảnh sát trưởng mỉm cười vui vẻ, nhưng ánh mắt lại không cười. “Được thôi, tôi sẽ báo.” Gã xìu xuống và nói với giọng tràn đầy hy vọng. “Rồi anh sẽ tìm ra đám trẻ đó thôi nhỉ?”
“Hy vọng vậy.”
“Chúc may mắn!”
Matthew muốn đấm gãy hàm răng phía sau nụ cười mỉm của gã này. Hắn thậm chí còn chẳng quan tâm tới lũ trẻ, Matthew căm phẫn nghĩ. Dù lý do ông nhận công việc này đa số là vì tiền, nhưng ông thực sự lo cho đám trẻ đó. Ông gần như chẳng hy vọng gì lũ trẻ còn sống, nhưng đôi khi chết thì tốt hơn, nếu trong trường hợp lũ trẻ đấy gặp phải chuyện gì đó khủng khiếp tới mức không thể trở về. Ông nhớ tới câu chuyện về một cô gái nói chuyện với mẹ qua điện thoại trong lúc bị con gấu ăn sống, còn cha thì đã chết trước đó, cơn rùng mình một lần nữa kéo tới.
Rồi tiếng hú ngân vang thành từng đợt riêng lẻ, liên tục, như thể hòa cùng cơn ớn lạnh của Matthew.
“Chim tu hú.” Tay cảnh sát trưởng nói, từ lúc nào trên tay đang cầm một điếu thuốc. Đầu lọc đang nằm trong miệng. Gã rít một hơi rồi nhả ra làn khói trắng mờ mờ, ánh mắt đầy ám muội. “Đám tu hú mỏ vàng, chúng sinh sống khá nhiều trong rừng, và cả cú nữa. Đám cú đốm ấy. Tiếng kêu của chúng đôi khi làm tôi rợn cả người.” Gã nhìn Matthew, chân mày hơi nhướng lên. “Anh đi chưa?”
Matthew nhún vai rồi bắt đầu bước qua giữa hai thân cây lớn, tiến vào khu rừng bạt ngàn huyền bí với những vụ mất tích đáng ngờ.
Bình luận
Chưa có bình luận