Chạy đi - Hãy chạy đi



“Các anh chị hãy cho tôi biết nhận định của các anh chị về tình yêu là gì?”

Sau khi câu hỏi vừa dứt, bên dưới lớp học chợt bắt đầu xôn xao. Tất cả mọi sinh viên đang bàn tán sôi nổi. Chủ đề về tình yêu, dù là trong văn chương hay trong triết học, nó luôn là một chủ đề thu hút mọi thời đại. Tình yêu, định nghĩa về nó hình như là đã bất chấp tất cả mọi thứ định nghĩa của nhân gian. Không chỉ vậy, định nghĩa của tình yêu dường như bất chấp mọi dòng thời gian tuyến tính.

“Tình yêu là sự hoà hợp đồng điệu giữa hai tâm hồn.” Một cậu sinh viên phát biểu ngay.

Rồi ngay lập tức một bạn nữ sinh khác lên tiếng. “Tình yêu là kết tinh cho những xúc cảm vượt lên trên cả những xúc cảm ban đầu của con người.”

Rất nhiều, rất nhiều những nhận định khác nhau về tình yêu được từng nhóm sinh viên thi nhau trình bày. Hiển nhiên, mọi định nghĩa đều không đồng nhất với nhau. Điều đó càng minh chứng cho ta thấy với mỗi sự vật tồn tại trên thế gian này, từng cá thể khác nhau sẽ dán lên nó một định nghĩa phù hợp với những điều kiện mà cá thể đó có.

Vậy thì đâu mới thực sự là định nghĩa gốc của một sự vật đây?

Tôi đã từng vô cùng trăn trở về điều này đến mức phát điên lên. Để rồi chính tôi trong từng ấy năm tháng hỗn loạn, đi tìm như tìm lấy một cây kim nơi đáy bể, tôi đã sống một cuộc đời của kẻ vô lại đầy hổ thẹn. Một cuộc sống lưu đày ngay trong chính cuộc đời mình. Một cuộc đời chất chứa những đớn đau, những bi kịch và những nỗi khổ tâm không một ai san sẽ. Một nỗi cô đơn.

Và rồi, trong một buổi chiều, có mưa, có chút ánh sáng của tà dương rực rỡ, tôi đã thốt ra được một lời nói chất chứa từ nơi chiếc hộp được cất giữ tại đáy tim mình. “Tôi cô đơn lắm.” Phải, dù cho từng ấy năm trời, trải qua biết bao những cuộc chung đụng, gặp gỡ biết bao nhiêu con người, tôi vẫn không hiểu được vì sao mình cứ phải mang lấy nỗi khổ lụy cao như địa ngục A Tỳ mà bất kỳ ai chỉ cần chịu lấy một phần cũng đủ khiến hắn gục ngã. Đó chẳng qua là vì dù cho có mở lòng với nhân gian bao nhiêu đi chăng nữa, tôi vẫn luôn tự mình phòng thủ và kìm nén xúc cảm cuối cùng này. 

Sự cô đơn, có lẽ ngay lúc này là cái mà tôi phải phản kháng lại nó. Để biến sự sống mà ai cũng dễ dàng có được nhưng cũng không khó mất đi thành thứ định nghĩa tồn tại, tôi sẽ phải tiếp tục chiến đấu kể cả khi sức. Và cho đến tận bây giờ tôi mới bắt đầu hiểu câu nói của cha mình năm đó. “Nhưng con vẫn phải sống mà có đúng không?”

Đúng như những gì chúng tôi đã dự định, lễ anh đào kị lần thứ ba tôi đón tại Nhật Bản cùng vợ mình là tiểu thư Manabe hay đúng hơn là tiểu thư Sato (tôi sẽ bắt đầu gọi em như vậy) cũng chính là ngày tôi và nàng kí giấy ly hôn. Không một ai trong chúng tôi cảm thấy hối tiếc vì điều ấy cả. Mọi thứ đều đã như thể được định sẵn từ trước. Sau khi kí xong tờ giấy ấy, tôi dọn đến một nhà nghỉ tồi tàn gần khu Asakusa và sống tại đó cho đến lúc về lại cố hương. Từ đoạn ấy trở về sau, kí ức của tôi như mất đi một đoạn vô cùng quan trọng.

Và cũng chính từ khoảng thời gian từ đấy về sau, tôi đã không còn có bất kì thông tin gì về nàng. Giống như Kikyo, cứ như thể là định nghĩa của nàng đã biến mất khỏi nhân gian. Hoặc định nghĩa ấy đang cố gắng cự tuyệt tôi để tham gia cùng tôi vào một trò cút bắt.

Nhiều năm sau đó, khi tôi quay lại Nhật để giảng dạy tại một trường quân nhân của lực lượng hải quân Hoa Kì, tôi có đến khu Mikata để thăm lại cửa hàng hoa năm đó. Lúc bấy giờ, cửa hàng đã được người ta thu mua và lập một tòa nhà văn phòng cao đến chín mười tầng. Những ngôi nhà chung quanh ấy đều đã được ấn định để rơi vào dự án bộ quy hoạch đô thị của thành phố Tokyo nên hầu hết không còn những ngôi nhà dân lụp xụp hai tầng như hồi tôi còn học ở đấy. Đôi vợ chồng già năm xưa đến chào tạm biệt chúng tôi khi chúng tôi bán ngôi nhà ở Mikata để về khu Ikejiri cũng không còn thấy nữa. Nó lại càng minh chứng thêm cho cái suy nghĩ của tôi về những định nghĩa kéo theo định nghĩa về tiểu thư Sato cũng bắt đầu biến mất như chưa từng tồn tại ở nhân gian.

Và trong giây phút tôi đứng thất thần ở trạm dừng xe, tôi chợt nhận ra những điều mà mình chưa từng nghĩ đến. Một suy nghĩ nhẹ nhàng như cơn gió mà tôi đã phải đánh đổi từng ấy năm để bắt kịp. Tất cả những định nghĩa của nhân gian cứ hình thành, tiếp nối rồi lại tự nó biến mất giữa nhân gian. Hiển nhiên, nếu đặt con người trong bối cảnh giữa những định nghĩa ấy, có những người chấp nhận nó và xem nó như điều bất di bất dịch, lại có người chống đối nó và tìm cách đào bới cho ra những tầng ý nghĩa sâu xa hơn.

Suy cho cùng, tất cả đều là hiện thân cho cuộc đấu tranh giữa quyền được sống hay quyền được tồn tại mà đỉnh điểm chính là những khuất phục và phản kháng liên tục của mỗi con người.

Khi tôi đi bộ đến khu Ikejiri, toà chung cư mà tôi và người vợ trước thuê ở vẫn còn nằm hiên ngang ở đấy. Và trong tâm tư của mình, tôi đoán rằng nó sẽ còn ở đó thêm một khoản thời gian nữa. Cũng đúng thôi. Những kiến trúc vốn thuộc về thế giới hiện đại như thế là minh chứng sống động cho sự phát triển không  ngừng của một thành phố nhộn nhịp như Tokyo. Chúng sẽ không những không mất đi mà ngày càng tăng lên. Chúng sẽ vừa là minh chứng cho sự tồn tại của cái gọi là phát triển, vừa là hiện thân cho sự thành công của một cuộc cưỡng bức.

Mà có lẽ điều đó cũng không đúng. Sẽ không bao giờ là một cuộc cưỡng bức nếu như nó nhận được sự đồng thuận từ hai bên. Thế gian đã thỏa hiệp với những biến động để các nạn nhân của cuộc cưỡng bức phải im lặng và tiếp tục sống.

Tôi rất muốn đặt chân vào tòa chung cư ở Ikejiri. Tôi chắc chắn những người làm ở đây hẳn sẽ nhận ra tôi ngay khi tôi gặp mặt họ. Một người đàn ông ngoại quốc mắc chứng viêm phổi nặng ở cùng một cô gái Nhật Bản có tài cắm hoa. Đó hẳn là cách những người sống tại đây định nghĩa về tôi. Thật là khác xa cách những người bạn học cùng lớp đại học từng gọi tôi khi chúng tôi còn ngồi chung một lớp.

Tôi mỉm cười. “Vào làm gì. Cũng đã không còn ý nghĩa gì cả.” Tôi thì thầm mấy lời mà tiểu thư Sato nói với tôi khi tôi thụ án ở Aomori. Rồi quay mặt bước đi. Tiết trời bên ngoài đang vào thu nên se lạnh. Tôi đi bộ nhiều nên hầu như không thấy lạnh mà ngược lại còn đổ mồ hôi.

Đi một đoạn đến đại lộ chu vi, tôi bắt gặp một khoảng đất bỏ không. Mặc dù không quá bất ngờ nhưng tôi vẫn cảm thấy trong tâm trí mình hệt như đã bị hụt hẫng vì đánh mất thứ gì đó.

“Anh lại ho nữa à?” Tiểu thư Sato hỏi tôi.

“Em cho anh về nhà đi. Anh không muốn ở bệnh viện nữa đâu.” Tôi thều thào, cái khăn mùi xoa dính đờm và máu bị tôi vô lực đánh rơi trên sàn đất.

“Bây giờ thì anh không thể về được đâu. Bác sĩ nói anh còn phải nghỉ ngơi thêm mới khỏi hẳn.”

Vợ tôi mang một giỏ hoa đến cái tủ con đầu giường nơi tôi đang nằm. Giỏ hoa được cắm bằng những bông hoa cúc mềm mại chen lẫn vào đấy là mấy cành mẫu đơn. Phần bao bên dưới của giỏ hoa được nàng cẩn thận trang trí bằng một loại lá mềm mại. Những chiếc lá rung rinh theo những đóa hoa vừa gợi lên dáng vẻ kiều diễm của hoa vừa giữ cho hoa không bị phần nứa lát giỏ đâm gãy.

Đã lâu rồi tôi không nhìn thấy cô ấy cắm hoa. Chỉ vì tôi mà cô phải bán đi căn nhà ở Mikata. Việc chuyển về khu Ikejiri cũng là vì nơi đây tiện đường cho cô ấy đến làm tại một cửa hàng trang trí phối cảnh. Nhưng cho đến khi tôi phát hiện ra rằng căn chung cư ở Ikejiri được lựa chọn để thuê chủ yếu là để tôi có thể nằm tại bệnh viện điều trị căn bệnh viêm phổi và phổi nhiễm nước từ sau vụ việc ở Aomori và Maizuru.

“Em thật là có khiếu trong việc cắm hoa lắm đấy.” Tôi khó khăn thở và nằm ngửa ra. “Sao em không đi thi một cuộc thi cắm hoa nào đó. Anh hẳn là em sẽ đạt được một hai giải thưởng đấy.”

“Một cuộc thi sao?” Em nhìn tôi cười. “Anh thật khéo đùa đấy.”

Và bây giờ, sau từng ấy năm trời, khi tôi bất chợt ngồi đọc báo bên chiếc bàn cà phê của mình rồi ngoảnh lại nhìn người vợ kém tôi hơn hai mươi tuổi, tôi lại hỏi một câu tương tự như thế. Quá khứ và hiện tại hệt như vật thể và ảnh của nó qua gương. Trước mặt tôi bây giờ cũng là một cô chủ tiệm hoa. Tuy cô ấy có phần lớn hơn tiểu thư Sato năm đó nhưng so với tôi vẫn là một dạng kí ức đồng dạng với mảnh kí ức vào năm đấy. Nếu lúc này, em cũng trả lời tôi một câu tương tự như thế kia, hẳn là chính tôi sẽ tự mình đưa chính mình vào một vòng lặp vô hạn của dòng thời gian. Hệt như cách mà Marx nói về sự phát triển như hình xoáy trôn ốc.

Tôi nhìn em, một xúc cảm khó tả đang dâng lên vội vã. Trong tôi giờ đây không chỉ có một sự hy vọng mãnh liệt vào những thay đổi của thứ phức hợp giữa hiện thực và quá khứ mà còn là một nỗi khiếp sợ thuần tuý cái gọi là một vòng lặp của những niềm hổ thẹn chốn nhân gian. Tôi sợ chính cái cảm giác ảo tưởng của mình và sẽ hoàn toàn gục ngã để tìm đến sự giải thoát cực đoan nếu như chính tôi nhận ra sau từng ấy tháng năm, tôi vẫn chỉ là một kẻ đang tự mê hoặc mình bằng những định nghĩa mà thế gian dán nhãn lên cho tôi.

Và trong cái cảm giác càng sợ sệt biết bao nhiêu, tôi lại càng mong chờ được nghe câu trả lời của em biết chừng nào. Tôi gấp tờ báo lại, hai bàn tay xoa vào nhau tìm chút ấm áp. Và dường như hành động ấy thực sự là vô nghĩa, mùa thu ở thành phố Hồ Chí Minh, trời hầm và nóng hơn hẳn mùa thu tại Tokyo năm đó.

“Em nghĩ là không chỉ em đạt được giải thưởng đâu. Ngay cả anh, anh cũng sẽ đạt được một hai giải thưởng đấy.” Em nhìn tôi cười. Chậu hoa cúc em vừa cắm cùng mấy bông hoa thược dược, đồng tiền cũng như thể đang mỉm cười với tôi.

“Anh, giành chiến thắng cho một cuộc thi sao?” Tôi lấy tách cà phê nhấp một ngụm. “Em khéo đùa anh đấy.”

“Em không đùa anh đâu, không một chút nào đâu.” Dứt lời, em bước lại chỗ tôi đang ngồi rồi ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh.

Sau khi Tết nguyên đán vừa qua, tôi và Dung kết hôn. Tôi đã năm lần bảy lượt hỏi em rằng một người đàn ông đã trải qua một cuộc hôn nhân cũng như vài ba mối tình như tôi liệu có cái gì tốt để cho em nguyện gắn kết đến hết cuộc đời. Nhưng chẳng bao giờ em trả lời câu hỏi đó của tôi cả. Duy nhất có một lần khi em đang ngồi gấp những cái nơ đủ màu sắc để dành cho việc trang trí các giỏ hoa cho ngày lễ tình nhân sắp đến, em đã vô tình trả lời cho tôi hay.

“Chắc là do duyên phận đấy anh à.”

Duyên phận sao? Đã có biết bao nhiêu là cô gái từng nói với tôi về vấn đề này. Nhưng tất cả mọi lần tôi đều cố gắng trốn chạy thực tại. Người bạn cao trung, tiểu thư Sato, phu nhân Manabe, Mihiko và Kikyo, tất cả bọn họ liệu có phải là những mảnh ghép hoá thân cho định nghĩa của duyên phận? Từng chút một, từng chút một họ đến rồi đi và sau cuối, khi tôi bất chợt nhận ra mình đã trốn chạy quá lâu, tôi nhìn ngược lại về phía ánh mặt trời rực rỡ. Ở đấy, hẳn là sẽ có một ai đó, bằng bất kì cái tên nào, bằng bất kì ngôn ngữ nào sẽ đứng ở đó chờ tôi. Và rồi cô ấy có thể ở lại với tôi hoặc giả biến mất như thể định nghĩa của cô ấy tại nhân gian chẳng còn. Nhưng sự hiện diện của người con gái ấy chắc chắn là một cái gì đó vượt lên trên cả những ảo tưởng mà thế gian đã bày ra trước mắt tôi. Một sự thật còn thật hơn cả sự thật. Một định nghĩa mà trước giờ tôi cứ phải loay hoay tìm kiếm mãi.

Mọi chuyện rồi sẽ qua thôi.

Tất cả rồi cũng chẳng còn ý nghĩa gì lắm đâu.

Đạo đức à? Lý tưởng sao? Chẳng có gì là thực cả, ảo giác thôi.

Nếu anh tin vào duyên phận, hẳn một ngày nào đó anh sẽ nhận ra, dù là ở bất kì nơi đâu, và ở trong bất kì hình hài nào, em vẫn sẽ chỉ có một định nghĩa duy nhất. Đó chính là sự sống. Chỉ cần anh còn sống, thì anh sẽ vẫn còn tiếp tục tìm kiếm định nghĩa của mình tại nhân gian.

“Anh gọi em là Kikyo nhé? Yamashita Kikyo.”

“Bằng bất kể cái tên nào anh có thể nghĩ ra, bằng bất kì ngôn ngữ nào anh có thể dùng được.”

Tôi nhìn em, trong dòng suy tưởng của chính mình, những bóng hình của quá khứ bất chợt tan biến theo làn khói của ly cà phê đang nằm gọn trên chiếc bàn nhỏ. Cuộc sống của con người có phải chăng vẫn là ngày khuất phục, là đêm phản kháng. Chỉ cần ta vẫn chưa thoát ra được khỏi những định nghĩa của thế gian thì chừng đấy ta vẫn cứ còn phải phản kháng. Phản kháng đến sức cùng lực kiệt.

“Nếu như anh mất vào đúng ngày sinh của mình, anh có được nổi danh như Dazai Osamu tiên sinh không?”

“Không đâu anh à, sự sắp đặt số mệnh không bao giờ khiến anh tồn tại. Nhưng có lẽ, em sẽ chết cùng anh vào ngày đó đấy.” Vợ tôi nhìn tôi, em lại mỉm cười. Những đoá hoa cúc em vừa cắm vào chậu lại bồng bềnh trong gió.

“Nếu như có một ngày, anh đến trước mộ em.

Cũng giống như khi ta cùng sánh bước,

Xin đừng khóc vì em không còn đó,

Em đã hoá thành bầu trời xanh kia.

Anh à, chúng ta lại gặp nhau nữa anh nhỉ. Quả thật là một duyên phận. Em không biết vì sao dù em có đi đến bất kì đâu, em vẫn luôn gặp được dáng hình của anh. Có phải chăng anh là hiện thân cho quá khứ, hay anh là một sự sống ở ngay trước mắt em? Em cũng không biết nữa.

Trở về nơi chúng ta vẫn thường cùng ôm nhau, cùng hôn nhau, cùng từng vuốt ve nhau, những hơi ấm ấy thật mãnh liệt đến từng làn hơi thở. Mọi chuyện dù đã hóa thành kỉ niệm nhưng những kỉ niệm ấy không còn chỉ đơn thuần là những định nghĩa xuất hiện rồi tan biến ở nhân gian nữa đâu anh.

Đừng gặp lại em nữa. Và cũng đừng tìm kiếm em nữa.

Để thốt ra được những lời này, em đã phải cắn môi mình đến tứa máu ra. Không phải vì em không muốn gặp lại anh đâu. Em mong chờ được nhìn thấy anh như mong chờ từng hơi thở. Nhưng, những gì chúng ta từng trải qua, chỉ bấy nhiêu thôi em đã thấy mình như được tồn tại. Chỉ bấy nhiêu thôi em đã có thể cảm nhận được nhân gian thật đáng sống.

Hứa với em anh phải sống. Chính xác là anh phải tồn tại. Tồn tại để tìm kiếm định nghĩa của cuộc đời anh.

Em sẽ là bất kì ai, là cô bạn cao trung anh từng tự sát cùng không thành, là cô nữ y tá anh mang lòng thương nhớ lúc điều trị bệnh tâm lý ở Lâm Đồng, là tiểu thư Kikyo biến mất như mất đi định nghĩa giữa nhân gian, là Mihiko thà chấp nhận cái chết chứ không muốn cùng anh phạm lỗi, là phu nhân Tsukiko Manabe đã cùng anh tự sát ở vịnh Maizuru vì không thể đối mặt với tội lỗi do quan hệ của hai người, là tiểu thư Sato chấp nhận cùng anh chết vào ngày anh được sinh ra trên cõi đời này.

Em không chỉ là bất kì ai, em sẽ là bất kì sự vật nào anh chạm đến.

Em cũng là những ảo ảnh, những mộng tưởng, là gió, là ánh sáng và là những giấc mơ.

Nên đừng tìm em nữa. Vì có lẽ, em đã ở bên anh từ lúc nào mà chính anh không hề hay biết. Định nghĩa về em, có lẽ, nó tồn tại là vì anh hoặc cũng có thể định nghĩa về em, cái mà em luôn tìm kiếm chỉ là ảo tưởng của chính em mà thôi.

Tiên sinh của em. Hãy cho em gọi anh bằng kính ngữ này một lần cuối.

Tái bút.

S.M. (Some Memories)”

Một lá thư nặc danh, không có tem cũng chẳng có con dấu bưu điện được gửi đến nhà tôi. Khi đấy là cuối buổi học. Tôi không nhìn thấy nó hệt như là nó không hiện diện trong tầm nhìn của tôi. Bất chợt, cậu bí thư của lớp chỉ vào khe cửa nơi có mấy chậu hoa cúc mà vợ tôi đã cắm từ sớm hôm. Và trong giây phút đó, tôi nhìn thấy lá thư ấy. Một lá thư trắng trơn, không có gì đặc biệt.

Khi đọc xong lá thư, tôi cất vào ngực áo rồi lặng lẽ mỉm cười. Có lẽ, tôi cũng như những cô cậu sinh viên vừa ra khỏi lớp nghiên cứu tại nhà lúc nãy, chẳng thể hiểu được hạnh phúc là gì và cũng không bao giờ định nghĩa được hạnh phúc. Nhưng điều đó cũng không có nghĩa là đâu đó tại nhân gian này, hạnh phúc không tồn tại. Giống như cánh buồm rời vịnh Maizuru năm đó, lặng lẽ khuất khỏi mắt tôi nhưng không phải vì thế mà nó không tồn tại. Định nghĩ về nó vẫn cứ mãi khắc ghi trong dòng dài của kí ức. Không chỉ đối với tôi, với phu nhân Manabe mà là với tất thảy nhân gian.

Khi tôi hỏi chuyện với vợ mình về việc em nên tham gia vào một cuộc thi gì đó, cơn gió mùa thu thổi vào trong căn nhà hẹp ngang và dài thường thượt nằm sâu trong một con hẻm vắng của tôi làm cho những đóa hoa cúc bỗng rung rinh. Chúng như thể đang nhẹ nhàng bồng bềnh trong làn hơi của đất trời vừa sang thu. Ánh tà dương cũng giống như đang nhảy múa những vũ điệu rắc rối thường ngày của chúng. Những kí ức chạy dài theo tháng năm đã chẳng còn vướng bận. Cảm giác nhớp nháp nơi da thịt bởi thứ nước muối biển nơi vịnh Maizuru hay bờ biển Aomori dính dấp tự bao giờ được gột rửa.

Nhưng không phải là chúng biến mất một cách không còn giấu vết đâu. Chỉ là khi ấy tôi đã có thể tự nói với mình rằng. “Chạy đi, hãy chạy đi.”

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout