Anh đào kị - 3



Sau khi chúng tôi kết hôn được gần một tháng, vợ tôi quyết định bán căn nhà hai tầng ở khu Mikata. Những người khách quen của nàng cũng như mấy người hàng xóm của chúng tôi đều ghé qua một chút để nói lời chia tay hai vợ chồng chúng tôi. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi, tôi có cảm giác vợ mình có một mối quan hệ rất rộng chứ không đơn thuần là một kiểu người vợ Nhật Bản chỉ chăm chút chuyện chồng con.

“Chúng cháu không đi xa đâu.” Vợ tôi mỉm cười với hai bác già luôn mua hoa tặng nhau vào ngày sinh nhật của họ.

“Tôi sẽ không thể tìm thấy một nghệ nhân ikebana nào như cô đâu cô Manabe à.” Người đàn bà lấy khăn mùi xoa xoa lên mắt.

“Chúng cháu chỉ dọn về khu Ikejiri thôi mà. Chỗ ấy cũng không xa nơi này lắm đâu xin phu nhân đừng quá lo lắng.” Vợ tôi vẫn cố hết sức trấn an người đàn bà đang sùi sụt. Bà dường như chỉ chực chờ một câu nói tác động nào đấy liền sẽ trào nước mắt để khóc một trận thật to.

Một người bán hoa ở cửa hàng làm sao lại có thể lấy được cảm tình của nhiều người đến vậy cơ chứ. Tôi tự hỏi chính mình khi chứng kiến hàng tá người liên tục vào ra bên dưới lầu từ cửa sổ căn gác trên tầng hai nơi tôi có thể trông ra thành phố.

Sau khi trở về từ Maizuru, căn bệnh phổi nhiễm lạnh vốn được chẩn đoán đã hình thành sau vụ hỗ trợ tự sát ở Aomori bắt đầu trở nặng. Tôi phải đã phải đi bệnh viện suốt và thời gian học hành cũng vì thế mà gián đoạn đi rất nhiều. Thêm vào đó, tôi bắt đầu uống rượu mạnh và hút thuốc lá nhiều hơn hẳn. Nếu trước đây tôi uống whiskey có pha soda hoặc chí ít là pha thêm nước thì giờ đây tôi uống thẳng chất cồn ấy từ những chai thuỷ tinh. Khắp căn phòng ở tầng hai, nếu như không có những vỏ chai rượu lăn khắp nơi thì cũng sẽ là những cái nút bần của chai rượu. Không chỉ sa vào rượu, tôi hút thuốc ngày càng nhiều. Thuốc lá giống như thứ á phiến giúp tôi say trong những cơn ho húng hắng của bệnh viêm phổi nặng.

“Không phải ngày mai anh có lớp sao?” Vợ tôi nhìn tôi chằm chằm. Tối hôm đó, nàng mặc một chiếc áo thun mỏng kiểu Âu. Chiếc áo cỡ nhỏ ôm sát người làm những đường nét vốn thuộc về phụ nữ Đông Á hôm nay bỗng hiện lên kiều diễm.

Cái chết của mẹ nàng hình như chính là bước ngoặt quan trọng để nàng thoát khỏi những kềm kẹp vô hình của đạo đức vốn được cho là danh giá của một gia tộc đã tồn tại từ thời Showa. Những ranh giới ấy rốt cuộc đã bộc lộ ra lỗ hổng để người con gái này nhân cơ hội ấy mà len lỏi ra bên ngoài ngắm nhìn thế giới. Quần ngắn, áo thun, guốc cao gót, giày thể thao, mọi thứ đều được nàng mang lên người và tất cả những sự kết hợp ấy làm cho tôi trong giây phút bị cuốn theo.

“Em bảo tôi phải làm thế nào đây?” Tôi ôm nàng vào lòng. Yukata của tôi trượt xuống làm lộ bộ ngực gầy trơ vì căn bệnh viêm phổi cùng những thói quen không lành mạnh.

“Anh gầy đi nhiều lắm đó.” Nàng lấy tay vuốt lên ngực tôi. Giọng nàng như sắp khóc.

“Bà ấy cũng từng nói với anh những lời tương tự như vậy khi anh và bà đứng nhìn những cánh buồm ở vinh Maizuru.”

“Em không muốn nghe đâu. Đặc biệt là những chuyện liên quan đến bà ấy.” Rồi dứt lời, nàng đẩy tôi xuống nệm.

Đêm đó, chúng tôi cùng nhau làm tình lần đầu tiên kể từ sau khi kết hôn. Chính xác là chúng tôi làm tình lần đầu tiên sau những biển động liên tục từ Aomori đến Maizuru.

Aomori, cái tên ấy hẳn đã hoá thành một kỉ niệm nào đó bị chôn vùi vào dòng chảy của kí ức. Nhưng đó là câu chuyện sau khi tôi cùng người tình của mình bắt chuyến hoả xa sớm nhất để rời thành phố và quay về Tokyo.

Hai chúng tôi đáng lẽ sẽ phải ở lại Aomori một thời gian vì những trạm tàu hoả do nằm trong khu vực động đất đã bị ảnh hưởng rất nhiều khiến chúng bị buộc dừng hoạt động. Tuy nhiên, vì một lý do nào đấy, sau tuyên án của tòa, với khoảng thời gian ít ỏi ba ngày bị tạm giam để làm các thủ tục bảo lãnh, tuyến đường sắt Aomori - Tokyo được khôi phục đến tám phần so với sau động đất. Chúng tôi may mắn đi ngay được chuyến đầu tiên.

“Giá vé là bảy ngàn yên cho một chiều đi. Thưa cô.” Người nhân viên ở cục vận chuyển thông báo cho tiểu thư Manabe.

“Hãy cho tôi hai vé một chiều ạ.” Nàng lấy trong túi ra một xấp tiền giấy, tất cả đều là những tờ một ngàn yên. Nàng đếm đi đếm lại vừa đúng mười bốn tờ và giao cho người soát vé để đổi lại hai tớ vé đi tàu.

Mười bốn ngàn yên, đó không phải là con số nhỏ. Để có thể có được cái vé tàu khứ hồi đi Aomori, tôi phải cầm chiếc máy hát đĩa. Đó là cái máy hát đĩa tôi rất thích nhưng bây giờ khả năng tôi có thể chuộc lại nó từ hiệu cầm đồ là con số không. Tôi không biết nàng đã kiếm đâu ra số tiền mười bốn ngàn này nhưng tôi biết một điều rằng người phụ nữ trước mặt tôi sẽ chẳng còn một chút gì để có thể trang trải trong những ngày sắp tới. Và chính tôi, tôi cũng sẽ chẳng còn gì khi trở về Tokyo.

“Em không cần phải làm như vậy.” Rồi như muốn chắc chắn thêm về luận điểm của mình, tôi nói tiếp. “Em sao không để tôi chết ở đây, hay bất quá là đi tù thì có lẽ những nỗi hổ thẹn và cảm giác tội lỗi trong tôi sẽ vơi đi ít nhiều.”

“Anh sai rồi tiên sinh.” Nàng nhìn cặp vé tàu trên tay. “Nếu tội lỗi có thể dễ dàng xóa bỏ như vậy thì trên thế gian này cần những triết lý thần học, tôn giáo để làm gì nữa chứ.”

“Chẳng phải chết là hết sao? Chẳng phải người ta nói luật pháp rất nghiêm minh và những kẻ phạm tội sẽ phải chịu hình phạt thích đáng sao?”

“Toàn là những lời hoa mỹ cả thôi tiên sinh à. Mấy lời ấy là thứ đạo đức được thế gian rao giảng chỉ cốt để xoa dịu thứ loài ác thú đang ngự trị trong thâm tâm của một kẻ thủ ác thôi.” Nàng tiếp tục nhìn cặp vé trên tay. “Giống như chiếc vé đi Aomori khứ hồi của tiên sinh vậy, dù cho anh có không đặt chân lên chuyến xe ấy thì số ghế mà tiên sinh đã đặt cũng chẳng ai dám ngồi lên đâu. Tiên sinh có thể giả đò như chính mình đã quên đi sự tồn tại của nó nhưng đâu đó ở tại nhân gian cũng sẽ có một con người hay một sự vật nào đó làm chứng nhân cho sự tồn tại của chiếc vé ấy.”

Đâu đó ở nhân gian sẽ có một sự vật nào đó làm chứng nhân cho sự tồn tại của tội ác. Cũng giống như phu nhân Manabe nhiều tháng sau, bà đã trở thành chứng nhân cho một cuộc tình vụng trộm. Một cuộc tình mà về nền tảng lý tưởng, đạo đức, nhân cách đều vi phạm đủ cả. Và cái giá phải trả cho việc làm chứng nhân này là gì? Có phải như cách mà tiểu thư Manabe từng nói, đã chẳng còn quan trọng không? Không, không thể nào như vậy được.

“Em có thai rồi.” Người đàn bà trong bộ kimono màu trắng tựa vào đầu tôi. Nàng thì thào như thể chẳng muốn một ai khác trên thế gian ngoài tôi có thể nghe thấy điều nàng vừa nói. “Em mong nó lại là một đứa con trai.”

“Một đứa con trai sao?” Tôi hỏi, trong tiếng gió đêm tràn vào từ vịnh Maizuru, những lá cây cứ thế xào xạc như đang ngân vang lời thì thầm của lá.

“Em đã từng có một đứa con trai. Nhưng rốt cuộc em đã không thể giữ được nó.”

Người đàn bà lại tiếp tục bày tỏ tâm sự. Trên trời, những vì sao đang lấp lánh. Vịnh Maizuru không có chút biến động nào kể từ khi lễ hội Obon bắt đầu. Vẫn cứ lặng im như tờ. Hình như, tất cả những chuyển động vốn thường ồn ào nô nức ở đây đã chết lặng. Nhân gian cũng có những lúc im ắng như thế này sao? Tôi nghĩ thầm rồi bất chợt run lên như thể bắt gặp cái gì đó thật đáng sợ. Sự lặng im của nhân gian sao? Nó không hẳn là một sự im lặng tuyệt đối. Trong cái sự im lặng kia hẳn là ẩn chứa một thứ gì đó vô cùng ghê gớm. Giống như một mặt hồ phẳng lặng nhưng không ai ngờ được bên dưới mặt hồ ấy lại là cả một thế giới sống động đang chuyển biến không ngừng.

Người đàn bà trước mặt tôi, em cũng lặng im hệt như một mặt hồ. Trong bộ kimono màu trắng có điểm hoa và một ít hoa văn tựa hồ là lá, cơ thể em đang hô hấp. Những nhịp điệu ra vào đều đặn như phối hợp với tiếng lá xào xạc chung quanh làm cho em trở nên vô cùng thực. Hơi ấm từ một cơ thể, mùi mồ hôi hòa với mùi nước hoa, mùi dầu gội của Âu châu cùng với mùi sữa phát ra từ cơ thể của một người đàn bà mang thai, tất cả đang quyện vào nhau tạo thành một mùi hương say mê.

Tôi đặt một cái hôn lên trán em rồi đưa tay chạm vào phần bụng vẫn chưa căng tròn. Dưới lớp y phục này, dưới lớp nhục bì mà các nhà tôn giáo học vẫn thường gọi là cơ thể bất tịnh chính là một sự sống. Phải, ở cái nơi dáy dơ nhất, một sinh mệnh sẽ chào đời. Và sinh mệnh ấy hẳn là sẽ có một ý nghĩa nào đó để tồn tại.

Một đứa trẻ, ngay từ khi nó cất tiếng khóc đầu đời, liệu rằng nó đã mang trong mình một định nghĩa nguyên thủy nào đó không? Định nghĩa đó từ đâu mà có? Rồi người ta bắt đầu gán cho nó một cái tên gọi, bằng bất kì ngôn ngữ nào, bằng bất kì thứ gì họ có thể nghĩ ra. Toàn, Henry, Fujii, Chen, tất cả những cái tên phải chăng chính là định nghĩa đầu tiên mà tha nhân áp đặt lên đứa trẻ đó. Suy đi nghĩ lại thì không đúng lắm đâu. Định nghĩa đầu tiên mà tha nhân buộc đứa trẻ ấy vào cuộc chơi của đạo đức, lý tưởng hàng triệu triệu năm qua, có lẽ, theo tôi nghĩ, là “con người.”

Có phải “con người” là định nghĩa ban đầu không? Tôi cũng không biết nữa. Vậy để tìm ra được ý nghĩa cho sự tồn tại của chính mình, có phải chăng con người phải từ bỏ cái nhãn dán mang tên con người sao? Chẳng phải con người phải lột đi cái diện mạo “nhân cách” sao? Chẳng phải con người chỉ có thể có một con đường duy nhất là đánh mất nhân tính của chính mình để tìm ra được nguyên nhân cho sự tồn tại. Để biến việc được sống thành việc được tồn tại chăng?

“Anh đang nghĩ gì vậy?” Vợ tôi bất chợt hỏi tôi.

“Không có gì đâu em.” Tôi ho húng hắng. Bụi từ những quyển sách bất chợt bay lên khi tôi lấy chúng ra từ cái thùng cạc tông đặt gần cửa ra vào phòng làm việc.

Chung quanh tôi lúc này đây không còn những âm thanh huyên náo của lễ hội Obon, hay những tòa nhà đổ sập sau cơn địa chấn ở Aomori. Một khung cảnh thanh bình với sách, với trà, với tà dương và một người vợ. Tuyển tập truyện ngắn của Akutagawa, tuyển tập Chưởng chi tiểu thuyết của Kawabata, Kokoro của Natsume Soseki và đặc biệt là bộ ba quyển Tà dương, Nữ sinh và Thất lạc cõi người mà tôi tự tay đem từ Việt Nam sang. Tất cả như thể là hiện thân cho một thế giới yên bình nằm ngoài định nghĩa của nhân gian.

“Mình ngồi nghỉ một chút anh nhé?” Vợ tôi rót một ly trà. Nàng để ly trà trên cái bàn con rồi lại tiếp tục thu dọn mấy thứ tủ kệ đặt lên gian bếp.

Chúng tôi chuyển đến khu Ikejiri vào tháng 9. Đó cũng là thời điểm rơi vào kì nhập học năm thứ ba của tôi tại Nhật Bản. Những môn học sau đó toàn là những môn chán ngắt. Chí ít là đối với tôi. Chúng tôi học về Yoshimoto Banana, Haruki Murakami. Không phải là các tác phẩm của họ không hay, không thu hút. Chỉ là những tác phẩm ấy vẽ ra một thế giới nhiệm màu mà ở đấy, tôi có cảm giác mình không thuộc về. Một thế giới mà cánh cửa của nó đã đóng chặt lại hệt như khi anh chàng Mizoguchi đốt Kim Các Tự rồi chạy lên Cứu Cánh Đình tìm lối thoát. Cánh cửa của những cứu rỗi, những chữa lành ở thứ văn học hiện đại dường như đóng chặt lại đối với tôi.

Nhân gian đã cự tuyệt tôi. Hoặc dã, chính tôi đã quyết định cự tuyệt nhân gian. Cự tuyệt tất cả những chuyển động của thế gian. Nhưng, tại sao tôi vẫn còn ở đây?

“Anh lại nghĩ gì đấy?”

“Em đừng bận tâm, anh không sao đâu.”

“Anh lại nhớ về biển à?”

“Cũng sắp sang thu rồi em nhỉ? Hay ta đi Okinawa một chuyến em nhé? Đã lâu rồi anh và em chưa cùng nhau đi đâu với nhau.” Tôi lấy thuốc ra hút. Nhưng, những cơn ho dữ dội khiến tôi không sao châm lửa được vào điếu thuốc. Thế là tôi đành thôi.

“Qua năm anh sẽ rời Nhật Bản có đúng không?” Đột nhiên vợ tôi hỏi.

“Anh học xong chương trình rồi. Có lẽ anh sẽ cùng em đi viếng một ngày anh đào kị nữa.” Tôi ngập ngừng. “Hoặc có lẽ là không thì sẽ tốt hơn.”

“Không sao đâu anh. Khi ấy chúng ta ly hôn cũng vẫn chưa muộn mà.”

Đột nhiên em nhắc đến chuyện ly hôn. Thời điểm đó cách khoảng một tháng sau khi chúng tôi kết hôn. Có một điều gì đấy thôi thúc trong tôi rằng mọi chuyện đều đã được nằm trong một kế hoạch nào đó. Vợ tôi, hình như em đã biết trước những chuyện đại loại như việc tôi còn rất ít thời gian ở Nhật. Và mặc dù đã biết trước tất cả những chuyện như vậy, em vẫn chấp nhận kết hôn, vẫn chấp nhận sống và làm tất cả những điều mà em muốn, những điều mà em xem đó là cần thiết cho cái gọi là “hạnh phúc” của chính em.

Cuộc ly hôn, chẳng qua nó là một mảnh ghép nhỏ của bức tranh tổng thể. Giống như con người, vốn từ khi sinh ra ta đã biết chắc chắn một điều rằng kết quả cuối cùng là cái chết. Thế nhưng rốt cuộc ta vẫn cứ phải tiếp tục cố gắng phản kháng không ngừng. Ta vẫn cứ cố hết sức chạy theo những định nghĩa của nhân gian đặt ra cho mình. Càng ngày càng lún sâu vào nó, và càng về lâu, ta càng dán lên người hàng tá những định nghĩa khác nhau để rồi cuối cùng cho đến lúc ta chấp nhận cái kết quả sau chót, ta không còn nhận ra chính mình là ai nữa. Sự phản kháng ấy, cho đến khi cạn sức, vốn nó là một thứ nỗ lực chống lại thế gian nhưng rồi suy đi nghĩ lại, ta cũng chỉ tham gia vào một cuộc chơi vô nghĩa. Sinh ra rồi tan biến.

“Anh không hề muốn chúng ta phải ly hôn đâu.” Tôi nhìn em, bất giác thở dài.

“Nó đâu còn là phải hay không phải đâu anh. Nó là một sự tự nhiên hệt như nước bốc hơi rồi quay về lại biển cả.”

Vợ tôi đặt mấy cái chén, mấy cái ly lên kệ rồi bắt đầu sắp những vật dụng như nồi, chảo, chén đĩa lên cái sóng chén. Trong khoảnh khắc, tâm hồn tôi bỗng nhiên nhẹ nhõm đến lạ. Trước mắt tôi, một người vợ Nhật Bản. Mặc dù cả hai chúng tôi đều biết rằng cuộc hôn nhân này có chăng chỉ còn tồn tại chưa đầy chín tháng nhưng kể cả có là một ngày đi chăng nữa, chúng tôi cũng sẽ phải thể hiện cho đúng với định nghĩa mà thế gian đã quy định cho cả hai lúc này.

“Hôn nhân, không phải chỉ nói đến chuyện lợi ích đâu con trai à.” Cha tôi buông tay khỏi cây gậy.

“Chẳng phải chính cha vì muốn cũng đang vì lợi ích rồi buộc con vào những mối hôn nhân do mai mối sao?” Tôi trả lời, giọng tôi hạ xuống.

Sau khi tôi từ Nhật trở về, quan hệ giữa hai cha con chúng tôi vẫn chưa có dấu hiệu gì của sự cải thiện cả. Đối với ông, tôi vẫn là một thằng con làm băng hoại tất cả những giá trị đạo đức vốn đã trở thành cốt lõi của dòng họ. Còn trong mắt tôi, cha tôi lại không khác gì một diễn viên môn hí kịch đổi mặt ở Tứ Xuyên. Thoắt ẩn thoắt hiện, những gương mặt của ông cũng theo thế mà chuyển biến không ngừng giữa sân khấu nhân gian.

Cha tôi vẫn nghiêm mặt nhưng đường nét chân mày của ông đã giãn ra thấy rõ. Tôi không biết trong khoảng thời gian tôi giải ngũ về nhà rồi báo đi tu nghiệp ở Nhật, cha đã có những chuyển biến gì trong suy nghĩ không. Cái tôi biết chắc chắn rằng ông đã không còn đủ sức để la mắng tôi nữa. Ngay cả cái sức mạnh khủng khiếp mà ông bộc phát trong cái lần tôi tự sát cùng người bạn cao trung năm hai cũng không còn thấy nữa. Cha tôi, có lẽ ông đã chấp nhận vô điều kiện sự sắp đặt của nhân gian. Có lẽ, ông đã nhận ra được cái đích mà chính ông nhiều năm về trước còn luôn miệng chối bỏ.

Giữa tôi và ông tuy lúc này đã có những lời qua tiếng lại nhưng tất cả chỉ tựa như một hình thức mới trong cách miêu tả cái  định nghĩa im lặng. Bây giờ, kể cả có ngôn từ hay muôn ngàn tiếng động giao thoa nhau đi chăng nữa thì tất cả cũng chỉ để làm cho cái định nghĩa về sự lặng im càng thêm rõ nét. 

Tôi im lặng vì tôi không còn nhận ra được sự hiện diện của những định nghĩa ở thế gian. Còn cha tôi, ông cũng im lặng. Chắc là bởi vì ông đã nhận ra tất cả những định nghĩa của thế gian.

“Con muốn được tồn tại, tồn tại như một thực thể là chính con.” Tôi vượt qua mặt ông. Khi đó, cha tôi đang ngồi trên chiếc ghế gỗ quen thuộc.

“Nhưng con vẫn phải sống trước mà có phải không?” Cha tôi nói, giọng ông yếu hẳn nhưng vẫn rõ ràng từng kí tự.

Nhưng tôi vẫn phải sống trước mà có phải không? Tôi tự hỏi lại chính mình. Cơn gió mùa xuân len lỏi giữa tôi và cô gái trước mặt. Mùi hương của bụi và mùi hương của nước hoa hoà vào nhau tạo thành một bức tranh phù thế bồng bềnh, ảo mộng, thực tế đến hoang đường.

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout