Tôi rời quân trường hồi tháng bảy và đáp xe khách đi Vũng Tàu mấy ngày trước khi về hẳn nhà. Mùa này, Vũng Tàu nóng khủng khiếp. Nóng hơn cả khi tôi đến Maizuru nhiều năm sau. Nhưng dù độ nóng của cả hai nơi này có khác nhau đến mấy thì chính tôi cũng có thể phần nào nhận ra cái nhớp nhúa mà thứ nước mặn mang lại trên làn da tôi, dù trải qua biết bao nhiêu tháng năm, chúng vẫn y hệt như những cảm giác ban đầu.
Sau vụ tự sát đôi không thành với người bạn cao trung năm thứ hai, tôi đã được gia đình bí mật cho đi điều trị tâm lý ở Lâm Đồng. Hiển nhiên, sự việc tự sát đôi của hai đứa tôi được gia đình tôi giấu kín với tất cả mọi người xung quanh nhưng không biết vì sao dù có giấu giếm đến cỡ nào thì sự việc ấy cũng lại lan truyền được ra bên ngoài. Rất nhiều mối hôn sự được cha mẹ tôi vốn sắp đặt và tự cho mình nằm kèo trên các gia đình được người mai mối giới thiệu đã gửi thư chia buồn đến cho cha tôi sau đó. Chia buồn chỉ là cái cớ. Từ chối hôn sự mới là việc thực sự họ muốn làm.
“Lòng tự trọng của tao và thể diện của cả gia đình đã bị mày bôi nhọ hết rồi đấy.”
Đó là lời đầu tiên cha nói với tôi sau khi tôi giải ngũ về nhà. Hai cha con tôi đã hơn ba năm không nói chuyện với nhau lấy một lời. Nếu có thể tính ông tằng hắng một tiếng rõ to sau khi tôi đưa tờ giấy báo nhập ngũ là một sự hiện diện cho thứ ngôn ngữ vốn mất đi bản chất và công năng vốn có giữa hai cha con tôi thì rõ ràng tôi và ông ấy chính là hiện thân cho khoảng cách của sự im lặng. Giống như thể là đó môi trường chân không.
“Bỏ địa vị tại một trường đại học và đi nhập ngũ. Mày rõ là muốn khiến cho tao phải tức điên lên mới chịu được đúng không?”
Cha tôi tức giận, ông ném cây gậy đang cầm trên tay xuống đất và bước lại chỗ tôi đang đứng. Bình thường, ông đi lại khó khăn vì chứng vôi xương đầu gối hành hạ ông. Nhưng hôm nay, có lẽ nỗi uất nghẹn bởi những giá trị đạo đức thuộc về cốt lõi của gia đình bị thằng con trai duy nhất mang danh hậu duệ hay đức tôn gì đấy làm cho tanh bành hết cả, ông đi những bước vững như Thái Sơn còn hai cánh tay thì chứa đầy uy phong tựa gông cùm.
Cha tôi túm lấy cổ tôi. Và tôi không hề tỏ ra ý định tránh né. Từ khi tôi quyết định cùng cô bạn học uống nước lau nhà để vĩnh quyết thế gian, tôi đã xem chính mình là một kẻ chưa bao giờ tồn tại. Kể cả bây giờ cha tôi có thực sự bóp chết tôi đi chăng nữa tôi vẫn sẽ mỉm cười chấp nhận nó. Hành động của cha vốn không vi phạm một chút nào đạo đức của thế gian cả. Đừng nói đến tình phụ tử. Tôi tại nhân gian, đã từng tin vào những lời hay ý đẹp đó nhưng rồi cảm thấy sợ hãi đến tuyệt vọng khi từng lớp, từng lớp giấy gói ấy được chính tôi bóc trần và thể nghiệm.
Con người, vốn là sinh vật vô lại. Ích kỷ đến vô lại. Họ sống với định nghĩa mà thế gian dán lên họ hệt như cách họ dán nhãn những sản phẩm trên kệ trong một cửa hàng tiện lợi. Bất kì lúc nào, họ cũng sẵn sàng thay đổi nhãn dán ấy vì một lợi ích nào đó.
“Mẹ tớ sẽ không chấp nhận đâu.”
Cô bạn gái nép sát người vào tôi khi chúng tôi đi dã ngoại với lớp ở Vũng Tàu. Khi ấy, bầu trời đã vào đêm, những ánh sao sáng trên bầu trời phía xa đang lấp lánh hệt như những cánh hoa anh đào tung bay trong gió.
“Sao cậu lại dám khẳng định như vậy?”
Tôi nhìn cậu ấy. Mặc dù cô bạn đang tựa vào người tôi nhưng ánh mắt của cô ấy không nhìn tôi. Ánh mắt ấy đang nhìn về phía xa xăm của bầu trời biển về đêm. Ánh mắt ấy trông có vẻ là đang nhìn về phía bầu trời xa nhưng trong thoáng chốc, tôi có cảm giác ánh mắt đó như thể đang xuyên thấu vào cõi lòng của chính mình. Một cõi lòng rỗng tuếch.
“Mẹ tớ từng phải lòng một người đàn ông. Và ông ấy đã biến mất trong một buổi chiều. Biến mất như chưa từng xuất hiện trên cõi đời này.” Gió thổi mỗi lúc lạnh hơn làm cậu càng nép chặt vào người tôi. “Mặc dù mọi người xung quanh phản ứng như thể ông ấy không tồn tại trên cõi đời này và không quan tâm những lời nói của mẹ tớ, mẹ tớ vẫn luôn đặt niềm tin vào người đàn ông đó. Mỗi lần tớ hỏi về tung tích của ông ấy, mẹ tớ chỉ nói rằng chẳng phải con chính là minh chứng sống động cho sự tồn tại của cha sao.”
Gió biển thổi vào mặt tôi làm cho phần da mặt vốn dễ khô lập tức như muốn nứt toác ra. Mùa đông ở Aomori lạnh một cách đáng sợ và tuyết thì lại đang rơi không ngừng.
“Tiên sinh sai rồi.” Mihiko hết nhìn tôi rồi lại quay mặt hẳn đi nhìn về phía biển. Gương mặt cự tuyệt thế gian lại một lần nữa xuất hiện trên cái dáng vẻ vốn đã kiều diễm nay vì trải qua những trầm luân của cuộc đời mà càng trở nên thu hút. “Chính đứa trẻ này sẽ là minh chứng rõ ràng nhất cho định nghĩa của anh ấy tại nhân gian.”
Mihiko lấy tay đặt lên bụng. Trong giây phút, tôi chợt nhận ra cô ấy đang mỉm cười. Nhưng nụ cười ấy không hề giống như một nụ cười mãn nguyện hay một nụ cười kiểu ai đó nhận ra được ý nghĩa của cuộc sống để tiếp tục đấu tranh. Nụ cười ấy bình thường, bình thường đến kì quái. Như một nụ cười của kẻ chỉ một lòng cự tuyệt thế gian.
“Làm sao em biết đứa trẻ ấy là của hắn.” Tôi nhìn Mihiko, gương mặt em lấm tấm những giọt nước còn quần áo của em thì ướt đẫm nước biển.
“Nhưng em chắc chắn một điều rằng đứa trẻ này không phải của tiên sinh.” Em đặt bàn tay lên bụng dưới. Bàn tay chỉ mới mấy hôm trước tôi còn nắm chặt và đặt nó vào lồng ngực mình. “Tiên sinh không cần phải bất ngờ đâu. Một người đàn bà đủ khả năng nhận ra đứa trẻ mà cô ấy mang trong bụng là con của ai.”
“Nhưng hắn không có thực.” Tôi vẫn cố gắng thuyết phục Mihiko.
“Vậy thì Kikyo cũng đâu có thực đâu tiên sinh.” Em nhắm mắt lại, rồi ho khan mấy tiếng lớn. Gió thổi từ biển bắc tràn vào lạnh cóng tay.
Nhìn thấy Mihiko ho, tôi vội vàng bước lại nơi em đang ngồi. Tôi tháo chiếc áo haori dính đầy đất và cát định khoác lên người em. Nhưng em đã gạt phăng tay tôi ra và cự tuyệt sự giúp đỡ ấy. Đối với em. Lúc này, những cử chỉ giúp đỡ từ tha nhân không hơn không kém chỉ là một sự thương hại không đáng có. Người Nhật Bản, họ đã quen với việc chịu đựng và vượt qua những điều khó khăn bất ngờ xảy đến. Chính vì đã quen với những chuyện bất ngờ vốn có thể xuất hiện bất kì lúc nào trong cuộc sống, sự yếu đuối và tính cầu cạnh đối với họ là cái không bao giờ có trong từ điển. Mihiko cũng vậy, em không cần sự giúp đỡ của tôi.
“Không đúng.”
“Tiên sinh từng tự lừa dối chính mình nữa.” Mihiko mở mắt nhìn tôi. “Em van tiên sinh, hãy quay về Tokyo đi.”
Dung đặt lên môi tôi một cái hôn của thiếu nữ còn trong trắng. Cái hôn của em dường như có một thứ ma lực mãnh liệt. Nó xóa tan đi những mơ hồ của quá khứ và đem tôi quay trở lại thực tại của ngày hai mươi chín Tết.
Hôm nay là ngày hai mươi chín Tết. Lễ Obon, anh đào kị, và cả ngày sinh nhật của tôi, tất cả chỉ là ảo giác của quá khứ. Một thứ ảo giác được sinh ra vì những tội lỗi nhớp nháp mà tay tôi đã nhuốm lấy khi còn là một chàng trai mới lớn. Một thứ ảo giác khiến cho người ta phải đắm chìm trong nó rồi quên đi tất cả những định nghĩa về hiện tại, về hạnh phúc và về nhân gian.
“Em vẫn chưa biết tên của anh.” Cô gái đỏ mặt và cúi gằm sau cái hôn bất ngờ của chính mình.
“Em muốn gọi anh là gì cũng được.”
“Nhưng em muốn biết tên thật của anh.”
“Có cần thiết nữa không em?”
Những chuyện đã xảy ra vốn không còn cần thiết nữa. Biết được sự thật về nó hay phanh phui những nghi vấn ẩn sâu bên trong những sự việc đã xảy ra ấy thì có ích lợi gì cơ chứ? Chẳng có một chút ý nghĩa nào cả. Tất cả những việc ấy chỉ càng làm cho các định nghĩa vốn đã rõ ràng trở nên mơ hồ thêm thôi. “Tự sát” chỉ nên là tự sát. “Tự sát” không nên biến thành hỗ trợ tự sát.
“Tại sao em lại làm như vậy?” Tôi cầm cổ tay của cô người tình và hét lên. Từ trước đến giờ, tôi chưa một lần nào có những hành động thái quá đến như vậy để đối xử với em cả. Nếu không tính những lần đi ra ngoài uống rượu tại khu Ginza rồi ngủ cùng đàn bà. Hay những lần tôi mượn tiền nàng và cứ hẹn lần hẹn lượt việc trả lại.
“Em không thể không làm như vậy.” Nàng nhìn tôi, đôi mắt nàng không chút ngấn lệ hệt như khi nàng đứng ra giải trình với tòa án tại Aomori.
“Nhưng đó là dối trá.” Tôi buông tay em ra. Giọng tôi chùng xuống hẳn. “Nhưng đó là dối trá.” Tôi lặp lại câu nói ấy thêm một lần nữa nhưng hình như đó không phải là âm thanh phát ra từ thanh quản của tôi mà là thứ âm thanh được thủ thỉ từ tận sâu trong đáy tim.
“Kể cả đó là dối trá.”
Ngày mười 14 tháng 3, tôi bị tòa án ở Aomori bắt. Đó là vào một buổi rạng sáng khi một người dân nhận lương thực tiếp tế từ sớm đi ngang cây cầu trông ra bãi biển. Cây cầu ấy hình như sau này đã được hạ xuống để xây một cái gì đó hoành tráng hơn. Nên khi tôi quay lại nơi đây một lần nữa, những ký ức vốn mong manh như bức tranh phù thế bỗng chốc hóa thành một lỗ hổng khổng lồ trong tâm trí. Như thể chính tôi đã mất đi khoảng định nghĩa về ký ức đấy vậy. Tất nhiên, tôi có thể không nhớ hoặc làm bộ quên nhưng các giấy tờ hồ sơ lưu lại tại toà án chính là những chứng nhân cho cuộc tạo phản thế gian mà tôi đã rắp tâm thực hiện cho bằng được.
Người đàn ông đó phát hiện tôi đang ôm một người đàn bà. Khi đó, hai chúng tôi đang ngồi giữa khoảng đất trống lớn trông ra biển. Toàn thân chúng tôi phủ đầy tuyết của trận rơi bất ngờ đêm qua lúc hai giờ sáng. Lúc anh chàng bắt gặp chúng tôi, anh ta tưởng chúng tôi đã chết cóng. Thật tình tôi lại mong cho sự việc diễn ra đúng như vậy hơn.
Trong màn tuyết phủ, tôi mặc kimono mùa đông, cái áo dày có lớp lót cũng dày không kém. Tôi còn cẩn thận khoác cả haori bên ngoài và đó chính là nguyên nhân khiến cho tôi không thiệt mạng vì lạnh. Hoạ tiết trên áo tôi là thứ hoạ tiết cách điệu hoa cúc. Từ xa nhìn lại trông nó giống như gia huy của hoàng gia Nhật Bản. Và đó cũng là một trong những chi tiết để dễ nhận ra tôi là một người ngoại quốc. Người đàn bà mặc kimono nhẹ. Kimono của nàng dệt bằng lụa trắng có thêu hoa. Nơi vạt của chiếc áo có kèm thêm họa tiết cây thường xuân. Em không trang điểm, chỉ tô chút son nhưng vết son đã lấm lem vì tuyết tan trên làn môi mềm mại.
Người đàn bà ấy lạnh ngắt. Cô ấy là một tử thi. Buổi mai thật đẹp, một buổi mai đầy phong quang của nắng. Những tia nắng sáng đang tung tăng chiếu xuyên qua lớp băng đã đóng chặt vì tuyết đọng đêm qua. Sự hoà hợp giữa sắc nắng và băng làm mặt đất ánh lên một sắc ánh như màu cầu vồng.
Tòa án Aomori tuyên án tôi tội xúi giục tự sát. Nạn nhân là một người con gái Nhật Bản. Chính xác nàng là một thiếu phụ đang mang thai. Tên em là Mihiko. Yamashita Mihiko.
“Tất cả những gì con nói đều là sự thật, mong bác hãy xem xét lại.”
Tôi đứng dậy khỏi chiếc ghế gỗ chạm khắc rồng phượng. Đầu tôi cúi thấp, chắc là thấp đến độ lưng hợp với chân một góc chín mươi độ. Sau câu nói ấy của tôi, một khoảng lặng kéo dài đã diễn ra khiến cho những suy nghĩ trong tôi như thể muốn phát điên lên. Im lặng chính là thứ vũ khí đáng sợ mà thượng đế ban cho con người. Tôi không biết mình đã đọc điều này ở đâu nhưng ngay lúc này đây, không cần những định nghĩa vốn thuần tuý phát ngôn hay sách vở như vậy, tôi vẫn có thể cảm nhận được một áp lực vô hình khủng khiếp đang đè lên hai vai tôi. Nó cứ trì cả phần cơ thể trên của tôi xuống một cách nặng nề không sao tôi nhấc người lên được. Mồ hôi trên trán tôi túa ra còn đôi môi thì cắn chặt lại suýt tứa máu.
Mặc dù không nhìn lên nhưng tôi cảm giác có người đứng dậy. Người ấy bước lại gần đến chỗ tôi đang đứng rồi nhẹ nhàng vỗ vào vai tôi. “Cháu ngồi xuống đã, đừng gấp gáp.” Rồi dứt lời, người phụ nữ ấy đỡ tôi đứng lên và cô ấy cũng giúp tôi ngồi lại vào chiếc ghế gỗ.
Trong ký ức của tôi về ngôi nhà ấy lúc này thật mơ hồ nhưng cũng rất rõ ràng. Chúng hệt như những bức tranh của hai tập giấy vốn riêng biệt nhau để chạy những hoạt cảnh động cho phim hoạt hình được lồng vào nhau một cách tuỳ tiện. Cơ mà chính cái sự tuỳ tiện này lại khiến cho tập tranh ấy trở nên phù hợp đến kì lạ.
Đó là một căn phòng khách không quá rộng. Phòng được bài trí theo một kiểu cách thuần tuý người Việt Nam những vẫn dễ nhận ra những đường nét Âu châu rất rõ. Sàn nhà được lót gạch men màu sáng. Đó có thể cũng là lý do mà căn nhà đột ngột sáng bừng lên khi có một ánh điện được bật lên vì buổi chiều tà chấm dứt. Một bộ bàn ghế chạm trổ rồng phượng đặt ngay chính giữa nhà như thể là kí ức của những đời chủ trước của căn nhà vẫn còn giữ nguyên nét vàng son của nó. Bộ tủ gỗ thấp được đặt sát tường, phía trên có một cái tivi đời khá mới cùng bộ âm ly đặc trưng của gia đình sinh sống tại nam kì. Một cây quạt đứng và mấy cái ghế con. Tất cả gợi cho tôi cảm giác gia đình này quả là một gia đình truyền thống.
“Con bé đã nói gì với cháu vậy?” Người phụ nữ mà tôi gọi là bác nhìn tôi, cô ấy cười mỉm rồi cầm tách trà lên uống một ngụm nhỏ. Trông cô cứ như thể toát ra một dáng vẻ cao sang nào đó mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy ở bất kì người phụ nữ nào suốt mười bảy năm sống trên đời này.
“Con, con.” Tôi ngập ngừng. Một cách nhát gừng, tôi tự nhiên mắc chứng nói lắp của anh chàng Mizoguchi trong bộ tiểu thuyết Kim Các Tự.
Ngay khi bị hỏi đến, tôi đã như hoàn toàn quên đi công dụng giao tiếp của ngôn ngữ. Không một kí tự nào có thể tròn vành rõ nét phát ra từ khuôn miệng của tôi. Hệt như khuôn miệng tôi đã bị nguyền rủa, lưỡi tôi như bị ai đó rút lại còn môi thì cứng chặt. Cho đến bây giờ, khi suy nghĩ lại hành động của mình năm đó, tôi chợt nhận ra đó là một phản ứng hoàn toàn tự nhiên. Hình như, tôi đã mất đi khái niệm về ngôn ngữ và trở nên câm lặng. Hoặc là thế gian đã mất đi khái niệm về âm thanh nên mặc dù tôi cứ nói nhưng tôi lại chẳng thể nghe thấy bất kì điều gì. Nhân gian của chúng ta đã liên tục mất đi các khái niệm trong những phút giây quan trọng nhất. Và chính những phút giây đó, mọi sự vốn tưởng diễn ra trơn tru mạch lạc như trong suy tưởng của ta lại hoá thành một thứ tội lỗi mà từ đó về sau không thể cứu vãn được. Từ bao giờ, ta đã trở thành công cụ để cho một thế lực nào đó nằm ngoài hiểu biết của con người chơi đùa ta trong trò chơi duyên phận.
“Khó cho con rồi.” Cô mỉm cười thêm một lần nữa.
Nụ cười của cô ấy, nó không đơn giản là một nụ cười. Khi đó, tôi đã suy nghĩ rất nhiều. Nghĩ đến phát điên lên. Nó không hẳn là một nụ cười khuynh quốc khuynh thành, cũng chẳng hề là một nụ cười nào đó chứa đựng thứ mỉa mai cay độc. Vì tôi không sao hiểu được những suy nghĩ của cô ấy nên tôi cũng không cách nào hiểu được nụ cười của cô. Và chính vì không bao giờ hiểu được nụ cười đó nên tôi cứ mặc sức dán lên một nụ cười đơn thuần chỉ là nụ cười vô số định nghĩa khác nhau. Để rồi chính tôi bị chìm trong những xúc cảm không sao thoát ra được.
Tôi đối với nhân gian, cũng vậy, cũng dán lên nó vô vàn những định nghĩa khác nhau và rồi chính tôi cũng quên đi định nghĩa vốn ban đầu mà nó sở hữu. Nhân gian đối với tôi cũng làm điều tương tự. Để rồi chính tôi cũng không còn cách nào khác chấp nhận mọi thứ định nghĩa của thế gian áp đặt lên mình. Là đạo đức, là lý tưởng, là tội ác, là xấu xa, tất cả chỉ xoay vòng một cách giản đơn không sao lượng định được.
“Vậy thì tiên sinh có định nghĩa sao?” Trong ánh mắt thất thần, Mihiko nhìn tôi.
“Một con người khi vượt qua giới hạn của mình sẽ thế nào?” Phu nhân Manabe vừa nói và vừa đi về phía biển.
“Nếu ngày sinh của tiên sinh có trùng vào ngày mất thì thế gian cũng sẽ quên ông thôi. Đối với Dazai Osamu tiên sinh, vì nó là một điều tự nhiên xảy đến nên tự khắc nó trở thành một huyền thoại, tự nhiên thế gian đặt ra một định nghĩa cho ông ấy. Điều đó có nghĩa là dù cho Dazai có mất ngày nào đi chăng nữa thì những định nghĩa về ông ấy cũng đã sẵn có rồi. Còn tiên sinh sẽ chẳng có một định nghĩa nào đâu, kể cả lúc tiên sinh còn sống và kể cả khi ông chết.” Tiểu thư Manabe trong lần gặp gỡ đầu tiên giữa hai chúng tôi đã nói như vậy. Đó là một buổi trưa hè êm ả.
“Thế còn em? Em cũng sẽ như nhân gian quên đi sự tồn tại của tôi sao?” Tôi nhìn em rồi châm thuốc hút. Khi đó, chúng tôi đang đứng trước mộ của văn hào Dazai Osamu và viếng.
Em đột nhiên chạm thật nhẹ vào tay tôi. “Vậy thì khi đó em sẽ chết cùng tiên sinh nhé?” Dứt lời, cô ấy quay đi và bước vội vàng.
Chết cùng tôi sao? Đó có phải là lời hứa như phần giòn của chiếc bánh không? Tôi cũng không dám chắc nữa. Trải qua những sự hổ thẹn của chính mình trong quá khứ, tôi chỉ mong được đền bù lại những tội lỗi ấy. Nhưng rốt cuộc, tôi không bao giờ thoát được những định nghĩa mà thế gian đã dán lên tôi một cách thô bạo. Càng gỡ bỏ những định nghĩa ấy ra, tôi càng cảm thấy nỗi khiếp sợ dâng lên không hồi kết. Mỗi một lớp định nghĩa biến mất, nó kéo theo muôn vàn định nghĩa khác sụp đổ và suy đồi. Những thứ thế gian cho là thành tựu, là trụ cột giờ đây không khác gì một bãi hoang phế. Thay đổi, dù là do tác động bởi ngoại cảnh hay tự nó muốn thế cũng chính là một giai đoạn ngổn ngang. Tìm ra định nghĩa của chính mình tại nhân gian, thứ định nghĩa đã mất đi vì bị ai đó chôn vào chiếc hộp pandora cũng chính là hiện thân cho những ngổn ngang, lạc lõng đó.
“Em không thể để chuyện đó xảy ra.” Người tình của tôi nhìn tôi, ánh mắt nàng không ngấn lệ cũng không buồn bã. “Nếu tiên sinh chết đi hay bị toà án ở Aomori kết tội thì em phải làm sao đây?”
“Em đang nói gì vậy, tôi không hiểu?”
“Nếu vào ngày em được sinh ra trên cõi đời này và em muốn chết đi vào ngày đó thì thế gian có nhớ em như cách họ nhớ Dazai Osamu tiên sinh không?”
Đột nhiên em nói với giọng nói chầm chậm lại. Từng câu từng chữ như thể được em cố nhấn mạnh để tôi có thể nghe thấy cho thật rõ. Đây hẳn là lần đầu tiên em nói chuyện với tôi bằng ngữ điệu như vậy. Em ghét kính ngữ nhưng em lại dùng kính ngữ hoàn toàn trong câu nói vừa rồi. Hẳn là em đã phải đau đớn lắm khi phát ngôn như vậy. Hẳn là em đã phải chịu vô số khổ đau để có thể bật ra những suy nghĩ từ tận đáy tim mình.
Tôi chợt nhận ra, một chút thôi, ý nghĩa của hạnh phúc. Hạnh phúc, đó là một từ ngữ cấm. Nó không nằm trong bất kì quyển từ điển cá nhân nào. Nó như thể là lý tưởng mà con người vẫn luôn khát khao. Họ đắp lên hạnh phúc hàng tá những quan niệm khác nhau và mỗi cá nhân lại có cho mình hàng ngàn, hàng vạn những quan niệm về hạnh phúc. Và mặc dù biết cái ý nghĩ của hạnh phúc tôi chợt nhận ra đó cũng chỉ là một định nghĩa mà tôi đang áp đặt lên thứ cảm xúc không sao giải thích được của mình, tôi vẫn tạm thời chấp nhận nó.
Tôi ôm em vào lòng. “Mọi chuyện rồi sẽ qua thôi em nhỉ?” Em không nói gì, chỉ tựa vào lồng ngực của tôi rồi hô hấp đều đặn. Chẳng mấy chốc, cô gái bán hoa ở một cửa hàng gần khu Mikata chìm vào giấc ngủ. Khi em tỉnh dậy, tất cả chỉ còn là một cơn ác mộng.
“Anh làm gì vậy? Anh buông em ra đi.” Dung dùng dằng khi tôi bất ngờ ôm chặt lấy em sau khi em hôn tôi theo lời van nài. Rõ ràng sức lực của một thiếu nữ không thể so sánh với một người đàn ông.
“Anh chỉ ôm em một chút thôi. Chỉ một lát thôi rồi anh sẽ buông ra ngay.” Tôi thì thào, lồng ngực đau dữ dội hệt khi tôi nhập viện ở Maizuru.
“Nhưng ở đây là giữa đường lớn đó.” Em thẹn thùng trả lời lí nhí.
“Anh cô đơn lắm.” Giống như Mihiko trước lúc em quyết định buông lấy tay tôi ra và tự sát, tôi bật lời này thành tiếng.
Tôi không biết người con gái tôi đang ôm trong lòng này có nghe thấy những lời này hay không và tôi cũng không chắc âm thanh đó của tôi có bị mất đi định nghĩa như khi tôi thưa chuyện với mẹ của người bạn cao trung hay không. Nhưng tôi biết chắc chắn và tôi tin chắc rằng mình đã tuyên bố một điều hùng hồn như vậy. Một lời phát xuất từ việc mở chiếc hộp chôn sâu nơi đáy tim.
Tôi đã rất cô đơn.



Bình luận
Chưa có bình luận