“Chẳng qua việc cậu gặp mẹ tớ cũng chỉ là cho có lệ thôi. Tớ thừa biết mẹ tớ sẽ không bao giờ đồng ý.” Cô bạn gái nắm chặt lấy tay tôi và ánh mắt của cô ấy đã rơi vào một khoảng trống giữa mắt tôi.
Sự việc xảy ra hồi năm thứ hai cao trung khi chúng tôi vừa hoàn thành bài thi kiểm tra giữa học kì thứ nhất.
Trước khi bước vào con đường văn chương như bây giờ, tôi vốn là một học sinh ưu tú trong lĩnh vực tự nhiên. Nếu như giữa toán và văn, lúc đó, tôi sẽ chọn môn toán. Nhưng, những đổi thay trong tâm thức con người vốn là một ẩn số khó lường. Sự khó lường ấy đã thành công tẩy trắng những tri thức khoa học tự nhiên mà tôi vốn thần tượng chúng như thể chúng là những quyển kinh điển của thế giới loài người. Ẩn số về tính thay đổi cố hữu của tất thảy nhân gian đã hóa tôi thành một kẻ thích đắm mình trong những tư duy phi lý và mơ mộng.
“Cậu có thể đến gặp mình một chút sau giờ học được không?” Đó là nội dung của những gì ghi trên mảnh giấy được truyền qua bàn tôi trong giờ môn quốc văn của cô T.
Tôi không trả lời. Dĩ nhiên với tư cách là một Bí thư chi đoàn, tôi sẽ không bao giờ để chính mình có thể vi phạm những nội quy mà nhà trường đặt ra. Mặc dù tôi vẫn tràn ngập một nỗi căm ghét đối với những thứ đạo đức cổ hữu của thế gian nhưng lúc này, trong hình hài một đứa học sinh cao trung, tôi chỉ có thể im lặng chấp nhận chúng như một phần tất yếu của đời sống con người.
Cuối giờ học hôm đó, tôi được phân công trực nhật và tôi đã kết thúc buổi trực nhật khá muộn. Cậu bạn trực chung với tôi vì mắc đi học tăng cường nên đã phó thác toàn bộ cho tôi còn về phía tôi, tôi sẽ tiếp tục ca học Nhật ngữ vào buổi tối tại trường nên tôi cũng không lấy làm khó chịu.
Trong ánh tà dương của ngày hôm đó, tôi đứng ra ngoài hành lang lớp học và nhìn xuống sân trường. Giữa sân trường là một cột cờ cao. Đối diện nơi ấy là tượng bán thân của vị anh hùng liệt sĩ mà ngôi trường mang tên. Tất nhiên, trong ánh chiều tà, mọi thứ bắt đầu chìm vào khoảng tối. Những vệt sáng cuối cùng còn lưu lại nhân gian sẽ chằng mấy chốc biến mất vào một nơi nào đấy. Giống như chúng chưa từng xuất hiện trên thế gian này.
Mắt tôi phóng ra thật xa, cố nương theo những tia nắng cuối cùng đang thi nhau nhảy nhót những vũ điệu của riêng chúng. Bất chợt tôi nhớ đến lá thư truyền tay mà mình nhận được hồi chiều.
“Gặp tôi sao?” Tôi tự hỏi rồi tiếp tục nhìn về phía những tia nắng tà dương. Chiều muộn đã đến hồi sắp tắt. “Để làm gì cơ chứ?”
Maizuru bắt đầu tổ chức lễ Obon vào đêm ngày 14 tháng 8. Lễ hội sẽ kéo dài mấy ngày liền cho đến tận rạng sáng ngày 18 tháng 8 mới kết thúc.
“Em sẽ không đi lễ Obon đâu.”
Người tình đang sống cùng tôi tại Tokyo nhất quyết không chịu đi cùng tôi đến một ngôi đền nào đấy để tham gia vào lễ hội quan trọng này. Tất nhiên, điều đó cũng không hoàn toàn làm cho tôi cảm thấy hụt hẫng. Tôi sẽ đến thần xã một mình.
Tầm bốn giờ chiều, tôi bắt đầu sửa soạn trang phục đi viếng đền. Tôi mặc một bộ kimono mùa hè có họa tiết đơn giản dành cho nam giới. Mặc dù tiểu thư Manabe nhất quyết không chịu đi cùng tôi nhưng nàng vẫn sửa soạn cho tôi thật chỉn chu khi đến viếng đền hệt như một người vợ Nhật bản thực thụ.
“Em thật sự không đi sao?” Tôi rít một hơi thuốc lá rồi gấp cái quạt lại cho vào túi.
“Em sẽ không đi đâu.” Nàng nhìn tôi mỉm cười, tay vẫn không ngừng điều chỉnh lại obi sao cho nó thật ngay ngắn.
“Mẹ em đã mấy ngày không về rồi nhỉ?” Tôi chuyển chủ đề. Cố gắng hết sức né tránh việc nài nỉ nàng đi cùng tôi.
“Mẹ em đã đến thăm em trai em tại đền thờ thần xã.” Nàng vừa nói, hai tay vừa điều chỉnh lại hai vạt áo cho chúng thật cân xứng. “Mọi năm, bà đều làm như vậy.”
“Sao em biết được điều đó? Chẳng phải em đã luôn ở Tokyo sao?”
“Đối với em trai, mẹ em luôn có một nỗi sầu muộn khi nghĩ đến nó. Mặc dù nó là dấu vết của một thứ tội lỗi xa xăm trong quá khứ nhưng có lẽ suốt cuộc đời bà sẽ không bao giờ quên được nó.”
Nói đến đây, nàng liền đi đến cái tủ đựng guốc và lấy ra cho tôi một đôi. Nàng quỳ hẳn xuống đất theo một kiểu cách của phụ nữ Nhật truyền thống, hai tay đặt lên hai quai của đôi guốc và cúi thấp đầu xuống. “Phu quân đi bình an.”
Đó là lần đầu tiên trong suốt gần một năm qua tôi được nghe tiểu thư Manabe nói chuyện với tôi bằng một thứ ngôn ngữ Nhật Bản mang đậm nét truyền thống và sặc mùi kính ngữ như vậy. Mặc dù trong thoáng chốc tôi có cảm giác mình đang hóa thân thành nhân vật được gọi là chồng của cô ấy nhưng cái cảm giác mơ hồ về một dự tưởng không lành bỗng chốc dâng lên và xâm chiếm tâm hồn tôi. Bất chợt, tôi nổi lên một cảm giác sợ hãi kính ngữ một cách kì lạ. Đặc biệt là thứ kính ngữ phát ra từ khuôn miệng của nàng.
“Thần xã sẽ mở lễ hội pháo hoa lúc bảy giờ tối. Nếu không phiền anh có thể đến gặp tôi ở mỏm đá lớn có thể trông ra vịnh Maizuru chứ?
Mùa hè ở đây thật là kinh khủng. Vợ anh quả là một người chẳng có một chút tinh tế nào khi buộc anh phải đi đến đây cùng cô ấy. Nhưng chẳng phải vì nóng nực như thế mà anh có thể gặp được những người phụ nữ mặc kimono hoặc yukata không có áo lót sao?
Chắc anh nghĩ tôi là một người đàn bà rất tự do và buông thả có phải không? Tôi thật sự là một người đàn bà như vậy đấy. Bằng chứng sao? Nếu như có thể kể đến mối quan hệ giữa tôi và người lính Hoa Kì tên Thomas thì đứa con trai hai tuổi giữa tôi và người quân nhân đó hẳn là bằng chứng sống động nhất cho sự phóng túng của tôi. Thế nhưng tôi biết đàn ông các anh lại dễ xiêu lòng với những người đàn bà được gắn cái mác hư hỏng như thế này hơn là những cô trinh nữ chưa biết mùi đời. Bằng chứng là mùi sữa từ bầu ngực của những thiếu phụ đã mang thai một lần chẳng phải luôn phảng phất trong tâm trí anh những lúc anh mơ hồ về cuộc ân ái sao?
Nhưng anh đừng bận tâm. Thomas đã là một cái bóng đen của quá khứ. Một người mẹ đơn thân như tôi thì có thể làm gì đây? Chắc là chỉ có thể đứng trên mỏm đá trông ra vịnh Maizuru để chờ đợi một người đàn ông đến mà giải bày nỗi cô đơn của một thiếu phụ vì thiếu hơi đàn ông mà trở nên hư hỏng. Quả nhiên, cái nỗi cô đơn ấy vốn không nên có.
Mà thôi.
S.M.”
Khi ra khỏi nhà được tầm mười bước đi bộ, tôi lấy trong ống tay áo yukata một lá thư vẫn còn thơm mùi sáp niêm phong. Tôi không biết lá thư này gửi đến phòng tôi từ lúc nào nhưng tôi có thể đoán chừng được ai là người đã gửi nó. Cũng giống như lá thư được truyền tay tôi trong giờ quốc văn của cô T khi tôi học cao trung năm thứ hai. Tôi hoàn toàn không nhìn thấy ai đã gửi nó đi nhưng trong tâm trí tôi đã mơ màng một hình bóng.
Sau khi đóng cửa phòng học lại và chốt khóa cẩn thận, tôi rời khỏi dãy hành lang dài và hẹp của trường cao trung. Phòng học của tôi nằm ở tầng hai nên có thể từ đấy phóng tầm mắt ra những dãy nhà mái ngói đang im lặng trong lòng thành phố nhộn nhịp. Những dãy phố vẫn còn đang chìm trong bóng tối vì đèn hãy còn chưa lên nhưng ánh chiều tà đã tắt ngấm tự bao giờ.
Trong bầu không khí mát mẻ của tiết cuối thu, tôi mặc bộ đồng phục của trường cao trung. Áo tôi bỏ ra khỏi quần và thắt lưng cũng đã cất vào trong cặp. Chiếc cravat cũng nằm gọn gàng trong tay áo để lộ ra một bộ mặt nam sinh ngỗ nghịch khác hẳn với hình tượng một Bí thư chi đoàn nhất nhất phục tùng các giá trị đạo đức, nội quy. Cuộc sống con người là ngày khuất phục là đêm phản kháng. Mặc dù bây giờ tôi đang chìm đắm trong thứ văn học cách mạng tràn đầy nhiệt huyết tuổi trẻ muốn góp phần xây dựng đất nước nhưng những hành động của mình sau lớp mặt nạ lý tưởng kia lại hoàn toàn trùng khớp với cái lý luận thập phần khổ đau và chống lại con người mà Dazai Osamu tiên sinh viết trong cuốn truyện ngắn “Vợ gã hoang đàng.” Có lẽ, ngay từ lúc bắt đầu cuộc sống của một con người, tôi đã phải luôn gồng mình trước tất cả những thứ ấy một cách hiển nhiên.
“Bí thư, cậu đến rồi đấy à?”
“Trường học cấm quan hệ yêu đương giữa học sinh với nhau đấy.” Tôi trả lời một cách dứt khoát trước giọng nói nhỏ nhẹ của cô bạn học.
“Nếu quả thật con người luôn cứng nhắc và tuân thủ theo nội quy nhà trường như cậu, hẳn là cậu sẽ bỏ ngoài tai lá thư ấy mới phải.” Cô ấy cúi mặt xuống, hai bàn tay nắm chặt phần quai cặp bằng da tựa hồ muốn giựt cho nó đứt phăng. “Chẳng phải là cậu đã đến đây sao? Và điều đó cũng chứng tỏ một con người khác trong cậu đang gào thét được thoát khỏi thứ bủa vây, kìm kẹp của đạo đức và lý tưởng nhân gian.”
Một con người khác trong tôi. Đây rõ ràng là một khái niệm hoàn toàn mơ hồ. Một học sinh tốt nghiệp sơ trung loại giỏi, được đặc cách thi đậu vào một trường cao trung danh tiếng, tham gia bài thi sát hạch lớp tiêu chuẩn cao của trường một cách dễ dàng như tôi thì có cái gì phải cố gắng gào thét để thoát khỏi thứ bủa vây, kìm kẹp của đạo đức và lý tưởng nhân gian chứ? Nếu nói không ngoa, tôi chính là hiện thân của lý tưởng và đạo đức nhân gian mới phải.
Đột nhiên khi tôi nhìn cô bạn đang cúi mặt vì ngượng, tôi chợt nhận ra lớp cửa kính phía sau đang phản chiếu lại hình ảnh của chính mình. Giống như bài thơ Haiku “Tôi cắt móng tay bàn tay tôi mười ngón,” hình ảnh của chính mình trong gương mỗi buổi sáng đi học tôi đều nhìn thấy và xem sự tồn tại của nó là một điều hiển nhiên. Nhưng bất chợt lúc này, khi tôi nhìn thấy nó, tôi lại giật mình không biết sự tồn tại ấy vốn là tồn tại hay sống.
Trong khoảnh khắc, tôi như thể mất đi khái niệm về chính mình và chỉ còn có thể nhận ra một bản chất siêu hình, phi lý nào đó đang tồn tại bên kia của bề mặt khung cửa kính.
Khi chúng tôi chuẩn bị quyết định gạt bỏ mục đích cho chuyến đi lần này đến miền ngoại ô thì bầu trời đột ngột dồn về dầy kín những đám mây nặng trĩu. Mây đen là dấu hiệu của một cơn mưa. Chính xác là dấu hiệu cho một cơn giông. Nếu như khi này còn ở Mỹ hay ở Nhật, hẳn là tôi sẽ chọn việc quay về nhà hơn là tiếp tục cuộc hành trình. Ở cái lứa tuổi như tôi, những cơn giông tố vốn mang trong nó ý nghĩa của sự đổi thay đột ngột đầy ghê sợ hơn là những thử thách có tính chất quyết định trong đời. Tôi, có lẽ sẽ không bao giờ có được thứ ánh mắt đầy kiên định như Mihiko lúc bắt gặp trận động đất lớn ở Aomori hay người tình của tôi tại Tokyo khi nàng biết tôi có liên quan đến một vụ hỗ trợ tự sát khi tôi bí mật đi Aomori vào tháng hai năm đó. Tôi vẫn chỉ là một thực thể chẳng bao giờ có thể hiểu được sự chuyển động của thế gian.
“Chà, sẽ có một cơn mưa lớn đấy tiên sinh.” Dung tựa vào lưng tôi. Chắc là vì lạnh, em lấy hai tay vòng qua người tôi và ôm chặt lấy tôi.
Tôi vẫn thường ở cùng những người phụ nữ từ khi quay trở về đây. Và điều đó càng trở nên thường xuyên hơn khi tôi thành công mua cho mình một căn nhà phố. Sự việc ấy được vị giáo sư ở đối diện nhà cũng như cô giáo mầm non ở cạnh phản ánh lên chính quyền địa phương nhiều lần nhưng tất cả vẫn lại đâu vào đấy. Lý lẽ của một tên vô lại thường thắng thế mọi phân tích của đạo đức thế gian. Thêm vào đó, địa vị xã hội của tôi so với những kẻ mà tôi gọi là bề tôi trung thành của đạo đức thế gian ấy cũng không chênh lệch là bao. Nên những hành động vốn chỉ xuất phát từ thành phần ở đáy xã hội như chuyện kéo nhiều phụ nữ khác nhau về nhà đã hóa thân thành một tinh thần phản kháng lề lối cổ hũ của nhân gian.
Đối với tôi, những chỉ trích của họ chỉ mang một ý nghĩa duy nhất. Họ khiếp sợ trước việc lớp mặt nạ đạo đức của bề tôi trung thành mà họ đã dành cả cuộc đời đắp lên gương mặt thật sự của họ bị bóc trần. Chỉ là như vậy thôi.
Tuy nhiên, tôi thường được ôm phụ nữ trong lòng mình chứ chưa bao giờ giờ được một người phụ nữ ôm mình như thế. Cảm giác của sự ấm áp bởi vì da thịt chạm nhau cách hai lớp vải bỗng nhiên hóa thành một thứ cảm giác trong sáng thánh thiện khác xa với những xúc cảm vốn thường có giữa tôi và phụ nữ. Chính thứ cảm giác được ma sát kì lạ không phải bằng xúc giác chạm xúc giác mà bởi xúc giác chạm vào vật thể là cho cơ thể tôi bất giác rùng mình như gặp phải thứ gì ghê rợn.
“Chúng ta nấp vào thương xá nhé?”
“Từ đây đến một thương xá đường hãy còn xa lắm. Em không muốn tiên sinh bị ướt chỉ vì em đâu.”
“Không sao đâu.” Tôi trấn an em rồi đặt bàn tay đang cầm tay lái của mình lên đôi bàn tay đang đặt trước bụng tôi. Hơi ấm của hai bàn tay ấy tràn qua bàn tay lạnh ngắt của tôi như đang truyền một thức sinh lực của thế giới thực tại.
“Nhưng?” Em ngập ngừng và hai bàn tay lại siết chặt lấy nhau.
Lễ Obon không có mưa như tôi đã nghĩ. Mặc dù khi tôi đi được nửa đến thần xã, mây đen đã kéo giăng dày đặc trên bầu trời phía xa về vinh Maizuru nhưng khi đám khách viếng đền hợp từ mấy con đường càng lúc càng đông thì bầu trời quang vắng hẳn.
Tôi sẽ không đến mỏm đá. Trong đầu cứ lởn vởn về bức thư được gửi vội vàng đến căn phòng tám chiếu ở tầng hai, tôi thầm đinh ninh đưa ra một quyết định.
Tội lỗi của con người hệt như cái lỗ đinh trên miếng gỗ. Nếu một lần đã phạm sai lầm thì vĩnh viễn không bao giờ xóa mờ được sai lầm đó. Thậm chí, kể cả khi ta mất đi định nghĩa về tội lỗi đó đi chăng nữa thì nó vẫn cứ tồn tại như một thực thể hiển nhiên. Trăm năm, triệu năm, thậm chí vô lượng năm trôi qua, tội lỗi ấy vẫn sẽ cơ hội hun đúc thành một mối quan hệ nhân quả nào đó. Cho đến khi hội đủ duyên đủ phận, nó sẽ lại tái hiện một lần nữa trong đời sống hiện thực của sự vật vốn tưởng rằng đã mất đi định nghĩa về tội lỗi ấy.
“Cậu làm người yêu của mình nhé.” Đó là những gì tôi nghe được từ cô bạn học cùng năm hai cao trung khi chúng tôi gặp nhau sau giờ học.
“Cậu có biết là trường học cấm yêu đương không đấy?” Tôi vẫn dứt khoát cự tuyệt với ý định này của cô bạn gái.
“Tớ không quan trọng lắm đâu.” Cô bạn vẫn cúi mặt. “Từ bỏ đi thể diện của một đứa con gái để đứng trước mặt một cậu bạn trai học cùng lớp và nói ra những điều mình muốn nói từ tận đáy lòng. Đó chính là nhu cầu được sống với chính mình mà tất thảy con người nào trong nhân gian cũng muốn làm.”
“Cậu đọc nhiều tiểu thuyết quá rồi đấy.” Tôi ngoảnh mặt đi chỗ khác.
Dường như tôi nhận ra chính mình vừa suýt thất bại trước những lời bộc bạch đó của cô bạn này. Nhu cầu được sống là chính mình của tất thảy những con người trong nhân gian sao? Rõ là phi lý. Cảm xúc của con người là một bài toán khó. Chính vì giải thích nó quá khó mà khoa học xếp cảm xúc con người vào một dạng thực thể hoang đường. Cảm xúc của con người vốn chỉ là một liều ma túy nhẹ. Tôi khi đó đã suy nghĩ như vậy. Nhưng tại sao tôi lại có cảm giác chính mình vừa rung động trước cái thứ mà tôi cho là phi lý và hoang đường như thế kia. Tôi cũng không biết nữa. Bầu trời bên ngoài đã đen kịt một màn đêm và thứ ánh sáng yếu ớt cuối cùng tôi có thể nhìn thấy ở bên ngoài sân trường là những ngọn đèn hiu hắt.
“Tớ không đọc nhiều tiểu thuyết đến như vậy đâu. Tớ chỉ là không hiểu vì sao trước khi gặp cậu, tớ có thể chấp nhận bất kì lời bày tỏ tình cảm của bất kì ai. Nhưng từ khi gặp cậu, tớ chỉ còn có thể khước từ tất cả mọi lời tỏ tình ấy.” Cô bạn gái vẫn tiếp tục lí nhí trong miệng những điều thật ngoài sức tưởng tượng. “Giữa tớ và cậu phải chăng là một sợi dây duyên phận nào đó đã gắn kết chúng ta?”
“Tiên sinh có tin vào duyên phận không?” Kikyo đã hỏi tôi như vậy trước khi em ấy biến mất như thể mất định nghĩa ở thế gian. Tôi không tin vào duyên phận đâu. Đó là câu trả lời mà tôi đáng lý phải nói với em khi đó. Nhưng rốt cuộc tôi không có cơ hội để làm như vậy. Và bây giờ, khi đã vụt mất cái cơ hội trả lời dứt khoát ấy, chính tôi lại mong chờ cái thứ định nghĩa mà từ đó đến nay tôi cho là hoang đường là phi lý mang tất cả những sự kiện trong đời tôi xâu kết lại thành một thực thể tồn tại ở nhân gian.
“Cậu đã đọc quá nhiều tiểu thuyết rồi.”
“Vậy thì hôn tớ đi.” Bạn tôi tiếp tục nói. “Cậu sẽ biết câu trả lời mà cậu cần.”
“Vậy thì anh hôn em đi. Chỉ có khi hôn em, lý tưởng, đạo đức, nhân cách mà thế gian đưa ra định nghĩa để ràng buộc con người, để ràng buộc chúng ta mới toàn toàn biến mất.” Người đàn bà Nhật Bản trong bộ yukata mùa hè có điểm vài bông hoa cúc đại đóa đang trôi giữa tà lá lụa màu cam tà dương nói với tôi. Vai áo của nàng đã trễ xuống để lộ ra một phần trắng nõn nà như đỉnh núi phú sĩ mùa tuyết rơi.



Bình luận
Chưa có bình luận