Tôi choàng tỉnh dậy. Trong cơn mơ hồ, tôi vẫn còn nhận ra được hơi thở của mình nồng nặc mùi rượu. Tôi không nhớ bản thân mình đang ở đâu nữa. Ở nhà hay đang ở ngoài. Nhưng với lượng tiếng ồn thế này thì khả năng cao nơi này chính là quán bar ở phố Ginza.
Tên của quán khá là hợm hĩnh - Machasake (trà xanh và rượu). Trong kí ức của mình, tôi nhớ rất rõ mình được phục vụ trà ở quán này. Nhưng trước khi bắt đầu được Kikyo, cô hầu trong quán, phục vụ trà thường xuyên, tôi cũng có mấy dịp say bí tỉ ở. Những lúc ấy, tôi bước về căn nhà ở khu Mitaka bằng những bước đi xiêu vẹo và một thần trí hoàn toàn không còn đủ sức tự làm chủ.
“Kikyo.” Tôi nhớ mình đã gọi tên của người con gái này. Mặc dù mấy người ở quán rượu đã chắc như đinh đóng cột rằng họ không hề biết một người con gái độ mười lăm mười sáu nào phục vụ ở đây mang cái tên như vậy.
Và mặc dù vị trà mà cô ấy mang đến cho tôi những lúc tôi phải ngồi khuya làm đồ án hoặc đọc tài liệu cho việc học vẫn còn giữ lại dư vị nơi đầu lưỡi nhưng tôi không hiểu vì lý do gì mà những người làm tại đó lại cứ phải dối trá một cách táng tận lương tâm như vậy. Họ tuyên bố quán Machasake của họ vốn chưa bao giờ phục vụ trà cho khách. Quán bar của họ là một quán rượu kết hợp Âu - Nhật hẳn hoi và cái chuyện mà tôi nói ra chính là một sự hoang đường đúng nghĩa.
Machasake không có Kikyo và chưa bao giờ phục vụ trà. Và điều đó cũng đã ngầm khẳng định, tôi chưa bao giờ là một vị khách ở đấy. Thế mà họ lại biết tôi. Có lẽ, sự tồn tại của tôi và của tôi khi trước vốn là một vết đứt gãy nào đó trong dòng thời gian của nhân gian. Chính vì nó đã bị đứt gãy và được ai đấy khéo léo đắp hai phân đoạn thời gian khác biệt nhau vào cùng một dãy nên sự mơ hồ và tính hoài nghi của phân khúc thời gian ấy hoàn toàn có lý lẽ của chính nó. Machasake có Kikyo và chính nàng đã phục vụ tôi một cốc trà xanh nóng mỗi khi tôi đến đọc tài liệu văn học Nhật.
Đó cũng chính là lý do sau sự việc Kikyo biến mất như thể định nghĩa của em ấy tại nhân gian đã bị thế gian quên mất, tôi đã bắt đầu lao vào cuộc rượu không ngừng nghỉ. Khoảng thời gian ấy tôi cũng vừa chấm dứt sớm bài tiểu luận môn nên hầu như đối với tôi, thời gian đã biến thành một khái niệm trừu tượng nào đấy hệt như ai đó đem đống cát đổ lên bàn rồi mặc cho đám cát ấy cứ như vậy mà chảy tràn hư không.
“Tiên sinh lại nhầm em với ai à?” Cô gái chủ cửa hàng hoa nhìn tôi bằng một ánh mắt trìu mến.
Tôi dường như muốn nói gì đó nhưng phát hiện ra mình đã say đến mức không sao nói được nên lời. Những cử chỉ và hành động quờ quạng ngay chính tôi cũng khó khăn điều khiển lấy. Người tôi nóng ran. Có lẽ tôi đã sốt rất cao. Không tìm thấy Kikyo, tinh thần tôi bỗng rơi vào hỗn loạn. Cái cảm giác bị một ai đó bất ngờ buông tay tưa tôi từ nơi vương cung thánh đường chốn thiên quốc rớt xuống vực sâu vạn trượng không thấy đáy.
“Cảm ơn anh đã cùng em khi đó. Nhưng bây giờ chúng ta vốn không còn thuộc về nhau.” Câu nói cuối cùng phát ra từ khuôn miệng xinh xắn của cô bạn cao trung. Dường như những âm thanh đã không còn đủ sức mạnh lôi kéo một con người đang ở đáy vực của tinh thần có thể vực dậy nữa. Những cử động môi cứ như thế lướt qua như muôn ngàn ảo ảnh. Khuôn miệng mở ra rồi khép lại, đầu lưỡi nâng lên rồi hạ xuống. Trong mơ hồ, tôi nhớ em có tô son. Nhẹ thôi, gọi là điểm son mới đúng.
Người đàn bà trước mặt tôi không tô son. Môi nàng khô vì khí lạnh của thành Tokyo, Nhật Bản. Có lẽ, son môi chỉ là một thứ phụ kiện. Nó không toát ra được bản chất của một người đàn bà. Không ai nói đàn bà không tô son thì không đẹp và quý phái. Có những người đàn bà dù cho gương mặt họ có trơ ra những mảng mặt không chút trang điểm, họ vẫn thu hút mọi người một cách kì lạ. Khuôn miệng của người đàn bà trước mặt tôi cùng hệt như bao người phụ nữ tôi từng gặp cho đến tận bây giờ, vẫn cứ mở ra rồi khép lại. Đầu lưỡi ẩn hiện trong khuôn miệng ấy cũng chẳng thay đổi sau bao nhiêu năm tháng, dẫu qua bao con người, cũng nâng lên rồi hạ xuống.
“Không, tôi chỉ thấy rằng giữa em và tôi có những liên kết không sao giải thích được bằng lời.” Tôi giữ tay lái và nhìn thẳng vào gương mặt cô gái. Cô ấy dường như vẫn cự tuyệt và quay đi không cho tôi thấy gương mặt nàng.
“Tiên sinh, anh có tin vào duyên phận không?”
Vừa dứt lời, Dung bỗng im bặt. Trái ngược lại với bầu không khí tĩnh lặng đến ghê sợ ấy là một cảm giác bồn chồn khó tả đang dâng lên từng giây phút chực chờ nuốt chửng lấy tôi. Tôi có tin vào duyên phận không. Đó không còn là mấu chốt của câu hỏi. Mà lại tại sao em lại hỏi tôi câu hỏi này.
Mỗi lần chạm vào khái niệm duyên phận, dường như giữa tôi và nó đang tự hình thành một vạch phân cách. Như thể bệnh tự miễn, cơ thể tôi từ chối điều trị những tế bào mắc phải bệnh tự miễn còn căn bệnh thì vẫn cứ tiến triển một cách âm thầm lặng lẽ. Có một điều gì đó đang diễn ra và điều đó đang cố hết sức ngăn cách tôi có thể tìm ra được định nghĩa thật sự của duyên phận. Cái câu “số phận về tình duyên đã được định từ trước” trong từ điển tiếng Việt hay “nghiệp ở tiền kiếp gắn kết hai con người” trong từ điển phật học dường như chỉ là định nghĩa của thế gian về từ này. Nó cũng như mấu chốt của câu hỏi rằng tôi có tin vào duyên phận hay không. Tôi không tìm kiếm định nghĩa của nó. Cái tôi muốn là mất đi định nghĩa về nó. Phải, chỉ cần mất đi định nghĩa về duyên phận thì những mối tương giao, những cuộc gặp gỡ, thậm chí những quan hệ máu mủ, xác thịt đều sẽ trôi đi mà không để lại bất kì một dấu ấn nào cả. Và nếu nhân gian có thể vận hành theo một cung cách như vậy, hẳn con người sẽ chẳng bao giờ cảm nhận được đau khổ nữa. Chiếc hộp Pandora chứa đựng một định nghĩa bên trong nó và làm thế gian quên đi mọi thứ về nó. Những thứ kéo theo của định nghĩa ấy cũng biến mất. Nếu như cái ta bỏ vào là một định nghĩa gốc của mọi gốc thì mọi định nghĩa về thế gian và trên thế gian sẽ biến mất. Duyên phận, có lẽ chính là gốc của mọi định nghĩa gốc.
Tôi im lặng. Mặc dù tim đang nhốn nháo nhưng tôi vẫn im lặng. Im lặng như thể một người mắc chứng câm điếc. Giống như khi Kikyo hỏi tôi về duyên phận, tôi đã im lặng. Và giống như khi người tình của tôi tại Tokyo hỏi tôi về Kikyo, tôi cũng im lặng. Hai kẽ răng đã dính chặt vào nhau hệt như ai đó dùng thạch cao bôi vào làm cho chúng bị hàn dính lại. Im lặng, có lẽ là hành động đúng đắn nhất lúc này.
Obon tổ chức tại Maizuru phần lớn để tưởng nhớ những người đã khuất. Tháng tám, Maizuru không chỉ không mát đi một chút nào mà còn nóng hơn một cách khủng khiếp. Những người đàn bà mặc kimono hoặc yukata mùa hè cũng đôi lúc không mặc lớp áo lót bên trong. Những người đàn ông khi ra ngoài, họ có khi chỉ cởi trần mặc đúng chiếc quần dài bằng lụa trắng hoặc có người chỉ đóng khố đi biển.
Từ sáng sớm, tiếng gọi thuyền đã vang lên inh ỏi từ vịnh Maizuru. Những huyên náo ấy giống như những chuyển động vốn có của thế gian để mọi người có thể nắm bắt được sự có mặt của mình tại nhân gian vậy. Nhân gian hẳn là một khái niệm vô cùng phức tạp và thiên biến. Tôi không dự tưởng được cuộc sống của một con người và cũng không bao giờ có thể tưởng tượng ra bên ngoài thế giới sống động kia, những con người đang lướt qua trước mặt tôi, có một ai có cảm nhận như tôi không. Họ vui, họ buồn hay họ hứng tình, họ thất vọng, tất cả mọi cảm xúc ấy liệu có phải là những điều kiện cụ thể cho một mối duyên phận nào đó đã chi phối đời sống của họ? Tôi hoàn toàn không biết. Chỉ biết tiếng còi tàu đã vọng về từ phía xa vịnh Maizuru rồi lớn dần lên báo hiệu cho tôi hay bây giờ đã là bốn giờ sáng.
Bốn giờ sáng. Những năm tháng rời Nhật Bản và sang sống cùng cha mẹ tại Bắc Mỹ châu, tôi đã có một vài ấn tượng vui buồn lẫn lộn với con số này. Kết thúc chương trình Nhật Bản học tại Tokyo, tôi về lại Việt Nam được khoảng hai năm thì ngay tức thì bay đến Bắc Mỹ châu mà không hề luyến tiếc.
Thực ra, cha mẹ tôi đã đến Hoa Kì và đã an cư lạc nghiệp tại đấy được một khoảng thời gian. Khi học hết đại học và tu nghiệp ở Nhật, cái gọi là tinh thần tự cường của một kẻ sống theo lối sống cậu ấm trong gia đình tiểu thị dân lại bộc phát một cách mạnh mẽ. Tôi đã lên hẳn một kế hoạch chống đối lại chính những người thân tộc của mình về mọi chuyện. Đặc biệt là chuyện hôn sự.
“Mày phải lấy con gái của ông ấy. Đây là tối hậu thư cho mày.” Cha tôi gằn giọng. Ông ném vỡ tan cái chén trà bằng sứ Bát Tràng mà chị ba tôi phải lặn lội ra Bắc hơn năm lần mới mua được cho ông.
“Xin thứ lỗi cho con.” Tôi vẫn thẳng lưng, hai mắt nhìn thẳng vào người đàn ông tóc đã hơi lấm bạc ở thái dương. “Con không thể và không bao giờ làm cho một người con gái nào phải khổ.”
“Mày đừng tưởng những chuyện mày làm ở Nhật tao không hay biết gì.” Ông ho rất hăng nhưng la mắng cũng hăng không kém. “Hỗ trợ tự sát, tự sát đôi. Toàn là những chuyện không ra gì.”
“Nếu như cha đã biết tại sao còn phải ép con đi đến một cuộc hôn nhân mà rõ ràng nó sẽ chẳng mang lại lợi ích gì.”
“Hôn nhân, không phải nói đến chuyện lợi ích.” Cha tôi thôi không la nữa. Ông ngồi xuống ghế, nhìn cái chén trà đã vỡ tan. Trái tim ông cũng đã vỡ tan từ khi ấy.
Tiếng gà gáy sáng ở Aomori vọng lại báo hiệu bây giờ là bốn giờ sáng. Cơn động đất trải dài từ Fukui đến Aomori đã qua.
Cũng như bao gia đình mất đi căn nhà của mình, tôi bơ vơ giữa dòng người và đi thơ thẩn dưới một màn tuyết rơi nhè nhẹ. Người tình của tôi tại Tokyo hẳn là đã nghe thông tin về vụ động đất. Tôi không biết nàng có lo lắng cho tôi hay không nhưng mỗi lần nghĩ đến chuyện ấy, tôi lại cảm giác một nỗi sợ vô hình đang len lỏi trong tâm trí. Nỗi sợ ấy lớn dần và hình như trong thoáng chốc. Tôi cảm thấy nó đã hóa thành một con quỷ khổng lồ và sẵn sàng nuốt trọn tôi vào khoảnh không được tạo dựng từ bóng tối. Nỗi sợ ấy giống như một thứ định nghĩa nào đó mà chính tôi không hề hay biết. Một thứ định nghĩa đã mất đi nhưng bản thể thực của nó vẫn còn hiện hữu tại nhân gian để làm người ta cứ phải suốt ngày sống trong lo âu. Nó chỉ là như thể đang chơi một trò chơi trốn tìm với tôi và sẵn sàng làm cho tôi hết hồn bất kì lúc nào.
Aomori. Đó hẳn là một nơi cực kì trọng đại.
Tôi đi vào thị trấn. Khắp nơi toàn những mảng tường bị rơi ra vì cơn địa chấn. Nhân viên an ninh, cảnh sát và các y sĩ đang làm việc cật lực. Họ hướng dẫn người dân tản cư. Các y, bác sĩ thì cuống cuồng chạy đông, chạy tây băng bó vết thương và hỏi thăm sức khỏe. Nếu đây là Việt Nam, hẳn người già và trẻ em sẽ được ưu tiên tuyệt đối. Ở Nhật, mỗi con người dường như có một lòng tự tôn tuyệt đối. Họ sẽ không vì mình già hay bệnh mà sẵn sàng lấy đi của người khác cái phần vốn dĩ thuộc về họ.
Và tôi hoàn toàn tin tưởng vào nhận định này khi tôi nhìn thấy Mihiko. Không chỉ Mihiko, cả Kikyo và tiểu thư Manabe. Tất cả bọn họ đều khiến cho tưởng tượng của tôi bất giác hòa trộn lại thành một hình ảnh vô cùng xa vời nhưng cũng thật là gần gũi. Hình ảnh của một người đàn bà đang mỉm cười buồn bã trong ánh tà dương rực rỡ. Tựa như một bóng hình trong nước. Hình ảnh ấy hiện hữu với nhân gian nhưng chỉ cần tôi đưa tay chạm nhẹ vào hình bóng ấy, tất cả đều sẽ như phút chốc tan vào miền hư ảo.
“Anh không nghĩ chuyện này là có lỗi sao?” Trong bóng chiều lem nhem, người đàn bà nép sát vào phần ngực áo lộ ra của tôi vì cơn gió lùa bay tà áo kimono mùa hè.
“Tôi không nghĩ sự kết hợp vốn thuộc về lẽ tự nhiên của tạo hoá như thế này lại là một thứ lỗi lầm.” Tôi vứt điếu thuốc đã tàn đến đầu lọc vào bụi cỏ.
“Mùa hè dễ hoả hoạn lắm đấy.”
“Đốt hết đi.” Rồi như thể muốn nói cho hết ý, tôi lại tiếp lời. “Đốt cho cháy rụi những thứ triết học, đạo đức vốn là định nghĩa vô thưởng vô phạt của nhân gian.”
“Nhưng đây là rừng cây đấy.” Cô gái cười nhẹ.
“Tất cả chúng ta đều sẽ đến lúc đó thôi. Hóa thành tro bụi.” Tôi hôn nàng. Nụ hôn nửa phần gấp gáp, nửa phần hứng tình. Mùi nước hoa phương Tây nhè nhẹ vào sống mũi. Hôm nay mùi nước hoa ấy đã át đi mùi nước gội đầu thông thường.
“Không đâu. Chỉ có anh và em. Chúng ta cùng chết với nhau đi.”
Phải. Chúng ta cùng chết với nhau đi. Tôi đã từng được nghe một lời thỉnh cầu như vậy. Phải. Tôi và em sẽ cùng chết với nhau. Chết như ánh tà dương đang tắt dần ở phía xa đường chân trời.



Bình luận
Chưa có bình luận