Say nắng tà dương - 1



Tôi xuống ga ở Aomori khi chiều đang buông dần sau ngọn đồi phía xa. Mặc dù không thấy rõ được khung cảnh tà dương cứ thế mà khuất dần vì tuyết đang rơi dày đặc trước mắt, tôi vẫn có thể hình dung ra được hình ảnh một thành phố xa tít về phía đông bắc nước Nhật chậm rãi, mệt mỏi chìm dần vào trong giấc ngủ của màn đêm.

“Tà dương.” Quả thật phải là một nơi như thế này mới có thể sản sinh ra một văn hào kiệt xuất như tiên sinh. Tôi nhận định. Tà dương mà tiên sinh nhắc đến trong kiệt tác của cuộc đời mình đã hiển nhiên trở thành một khái niệm vô tiền khoán hậu trong từ điển từ vựng của nước Nhật. Tà dương hẳn là gợi cho chúng ta một cái gì đó đang sa sút và sắp tới hồi tan biến. Tà dương, phải chăng nó cũng có ý ám chỉ về một kiểu định nghĩa đang mất dần ở chốn nhân gian?

Mặc dù ánh nắng yếu ớt hầu như vô lực, tà dương vẫn hệt như một thiếu nữ đang cố làm duyên làm dáng. Những tia nắng cuối cùng trong ngày chiếu qua vai tôi rồi nhẹ nhàng chạm xuống lòng bàn tay. Ánh sáng như thể một sinh vật sống đang chảy qua lòng bàn tay tôi rồi biến mất giữa một vùng tối của khoảng không gian cuối cùng trong ngày. Nó làm tôi chợt nhớ đến những khối cát trong chiếc đồng hồ cát. Cứ thế trôi chảy và gợi nhắc cho nhân gian hay chí ít là người nhìn nó về sự tàn nhẫn của thời gian.

“Anh đang nhìn gì đấy?”

Phu nhân Manabe chợt ngồi cạnh tôi. Bà, từ bao giờ không còn nhìn về phía biển nữa. Cánh buồm vừa nãy còn thấy thấp thoáng phía xa giờ đã hoàn toàn biến mất chỉ còn lại những gợn sóng lăn tăn vô hồn đập vào bờ cát dài của vịnh Maizuru trong buổi trưa hè nắng gắt.

Ngồi gần bà, tôi mới thật sự có dịp nhìn ngắm trọn vẹn dung nhan của người đàn bà ấy. Mặc dù đã có một đứa con gái ngoài mười lăm tuổi, phu nhân vẫn còn mặn mà lắm. Mái tóc búi cao. Cách búi tóc thuần tuý của một gia đình quý tộc Nhật Bản mà bất kì ai học về văn hóa Nhật cũng có thể dễ dàng bắt gặp trong những sách tranh chụp về những mệnh phụ phu nhân thời Minh Trị, Đại Chính hay Chiêu Hoà. Gương mặt bà ửng hồng, hình như chúng đã được bà cẩn thận trang điểm một chút trước khi rời nhà đến thần xã. Đôi môi được tô màu đỏ nhẹ. Dường như bà chỉ vô tình tô đỏ hơn một chút chứ không hề tính đến chuyện ánh nắng chiều tà đang chiếu vào gương mặt bà làm cho phần son môi ấy vô tình trở thành tâm điểm của khung cảnh tà dương. Có lẽ, chính sự vô tình không chút toan tính ấy lại làm cho định nghĩa về người đàn bà này giữa chốn nhân gian trong mắt tôi thêm phần đặc biệt.

Tà áo yukata mới rồi còn đang tung bay trong gió rập rờn những đoá hoa mẫu đơn cùng một đàn bướm lượn giờ đã lặng im bên một ngạch đá trong ngôi nhà được xây ra sát vịnh. Ở Maizuru, một nơi nằm gần cố đô Kyoto, người ta rất dễ bắt gặp những người phụ nữ Nhật Bản trong sắc phục truyền thống. Dáng đi của họ mượt mà. Khi họ băng qua những con phố vẫn còn được tô điểm bởi sắc lồng đèn, tà áo tung bay trong gió bất chợt lung linh, huyền ảo.

Việt Nam bây giờ, Sài Gòn, nơi đất cũ Đô Thành cũng không khác cố đô Kyoto là bao. Mùa này, khi năm hết Tết đến, những tà áo dài cổ điển cũng có, cách tân cũng có đang tung bay trong gió, mềm mại sắc xuân. Ngay lúc này, người con gái đang ngồi phía sau tôi, em cũng mặc một bộ áo dài rực rỡ. Tà áo dài của em không thêu hoa mà thêu những hình thù nghệ thuật kì lạ. Chúng cũng đang lặng lẽ tung bay trong gió.

“Em muốn ôm tôi à?”

“Tiên sinh chạy nhanh thật đấy. Nếu như em không có cái gì để vịn vào thì có lẽ sẽ bị gió thổi bay đi mất đấy.” Giọng em nhỏ dần như thể đang hòa vào những cơn gió mùa xuân. Mà có thể hình như cô bé đang ngượng ngùng khi bày tỏ việc ôm một người đàn ông lạ mặt. Quả thật là vậy. Dù chúng tôi tuy là đang giúp đỡ lẫn nhau nhưng đối với việc một cô bé phải ôm người mà cô chỉ mới vừa gặp hôm qua thì đúng là cũng có phần khiến một thiếu nữ phải đỏ mặt.

“Vậy tôi chạy chậm lại nhé. Đường Tết cũng không có quá nhiều xe cộ nhỉ?” Tôi trả lời. Mắt vẫn nhìn về phía trước để xem lại những cung đường khi trước mình đã từng đi qua.

“Tiên sinh chạy chậm thế thì sẽ rất lâu mới đến được nhà mẹ em đấy.”

Nhà mẹ nàng không nằm trong nội thành. Tuy nhiên, nó cũng lại chẳng phải là một nơi nào đó nằm xa tít ngoại thành. Nơi ấy là chỗ giao nhau giữa cái gọi là thành nội phồn hoa với vùng xa thôn dã. Vùng giao thoa, giai đoạn giao thời. Những khái niệm lưng lửng thế này thường mang trong mình vô vàn ý nghĩa. Những vùng giao thoa giống như là cái nơi hội tụ tất cả mọi thứ. Cả cái tốt lẫn những điều xấu xa. Nó hẳn là một giá trị gì đó trước đây chưa từng xuất hiện và sau này cũng chẳng bao giờ xảy ra. Nó là một khái niệm mà cả nhân gian này, đi khắp nơi cũng sẽ không bao giờ hiểu được. Phải đặt tinh thần cùng sự hiểu biết vào đúng cái thời đại và ngay tại vị trí mà nó được phát biểu ý nghĩa thì mới thật sự nhận ra giá trị của những khái niệm đó. Còn bằng không ta sẽ ứng xử với chúng hệt như là chúng ta đã mất đi khái niệm về chúng vậy.

Tôi cũng là một sản phẩm giao thời. Tôi sinh ra vào những năm cuối cùng của thế kỷ hai mươi nên hẳn là được xếp vào người sống được hai thế kỷ. Khi thế gian bắt đầu đi vào quỹ đạo của những phát minh công nghệ có phần làm lay chuyển nhịp độ sống của nhân loại, tôi đã sống ít nhiều một vài năm trong cái nhịp sống êm đềm của xã hội cũ. Người ta vẫn thường nói những thứ mà con người được tiếp xúc khi họ ở giai đoạn ấu nhi sẽ khắc sâu vào tâm khảm của họ và định hình nên tính cách của những cá thể ấy. Đặc biệt là khi sự xâm lấn của trí tuệ, tưởng tượng cũng như đặc quyền khám phá thế giới của một đứa trẻ đang bắt đầu manh nha tìm hiểu về thế giới xung quanh thì những trạm trổ ấy lại càng hằn sâu một cách khủng khiếp.

Tôi đã sinh ra và tiếp nhận những truyền thống cũ kỹ và hiển nhiên khi nhân gian bắt đầu hô hào nào là mở cửa nào là văn minh thì những con người như tôi và đám bạn tôi đã hóa thành nạn nhân cho một cuộc cách mạng chọn lọc. Những kẻ như chúng tôi mang trong mình tà dương của một thời đại sắp tắt.

“Anh không về sao?” Mihiko hỏi tôi trong khi cô ấy đang pha một tách cà phê có cho thêm chút kem sữa.

“Tôi sẽ về nhưng ít nhất không phải là lúc này.”

Khi tôi xuống Aomori được hai giờ đồng hồ thì đài truyền hình quốc gia đang phát bản tin lúc năm giờ. Họ dự báo về một cuộc động đất quy mô lớn khắp miền đông bắc trải dài từ Fukui đến Aomori. “Cuộc động đất này tuy không quá mạnh nhưng nó lại dàn trải. Tất cả các hộ dân sống gần biển từ Fukui đến Aomori nên chú ý di tản. Chính quyền địa phương sẽ phối hợp cùng cảnh sát an ninh để đưa ra những quyết định sớm nhất.”

Hai giờ đồng hồ sau quả nhiên có một trận động đất xảy ra thật. Khi ấy, tôi đang đi ăn chiều tại một cửa hàng sushi gần chợ cá tươi. Ban đầu, những dấu hiệu hoàn toàn không cho người ta cảm giác là sẽ có một trận động đất. Nhưng ngay khi những con cá và tôm trong những bể chứa bắt đầu nhốn nháo, tôi đã bắt đầu dự cảm về một điều gì đó không lành. Từ trước đến giờ, tôi chưa bao giờ được chứng kiến một trận động đất cả. Nếu có chăng, đó chỉ có thể tính là một sự rung chuyển nhẹ của lớp nền nhà dưới chân. Trong tích tắc, tất cả mọi thứ bắt đầu chuyển dời rất mạnh. Tôi được người bán hàng bày cho việc nấp dưới chiếc bàn đang ngồi và thế là tránh được một sóng chén đĩa rơi thẳng vào đầu.

Đúng như đài dự đoán, trận động đất không kéo dài. Nhưng nó lại gây ảnh hưởng trên một diện rộng. Thậm chí, các tỉnh đông bắc đã phải cố gắng khắc phục thảm họa ấy trong suốt sáu tháng sau đó.

Giai đoạn tôi sinh ra, lớn lên và tiếp nhận nửa vời lối sống truyền thống rồi đùng một cái người ta hô hào đổi mới cũng chẳng kéo dài. Ba năm, chắc là vậy. Và cũng như trận động đất bất ngờ ở Aomori, cuộc thay đổi này đã gây ra sự chia rẽ sâu sắc trong tư tưởng và hành động của phần lớn các thanh, thiếu niên cùng thời đại với tôi. Đó là một cuộc đối diện với cái gọi là thế gian và bản chất.

Một cách tự nhiên, tôi trở thành một phần của quá trình đau đớn này. Một cơn đau đẻ kéo dài. Đó là những từ mà tôi nhớ nhất khi học bộ môn triết học tại trường đại học. Mà cũng không đúng đâu. Nó chẳng đớn đau gì lắm. Chỉ đơn giản là chuyện tồn tại với thế gian hay sống với thế gian mà thôi.

Tồn tại và sống, trên bình diện hai ngôn từ khác nhau, cả hai từ này dường như có cùng một biểu hiện. “Ngôn ngữ có tính tiết kiệm.” Lời của thầy Dzũng vẫn đang âm vang trong trí óc tôi khi tôi vô tình đi nhầm vào lớp “từ vựng, ngữ nghĩa, ngữ dụng” của thầy. Chính vì tính tiết kiệm ấy mà không bao giờ tồn tại hai từ có cùng ý nghĩa, cùng hình thức hoàn toàn trong số biển ngôn từ bao la ấy.

Tồn tại và sống, hẳn là chúng có sự khác biệt nào đấy về mặt khái niệm. Nhưng tôi bây giờ chẳng cách nào hiểu được sự khác biệt ấy. Và hẳn là tình trạng đó cũng là tình trạng chung của tất cả những người đang hiện diện trên nhân gian. Tồn tại và sống, hình như thế gian đã mất định nghĩa về chúng rồi. Mất định nghĩa hệt như họ mất đi định nghĩa về Kikyo.

“Chiều buông đẹp quá tiên sinh.”

“Tự bản thân buổi chiều sẽ không đẹp đâu cô gái ạ.”

“Tiên sinh lúc nào cũng như vậy sao?”

“Ý em là gì?”

“Thì là lúc nào cũng phải trưng ra cái bộ mặt hệt như một người sắp chết đấy.” Người con gái ngồi phía sau xe mà tôi chở vừa nhẹ nhàng tựa đầu vào lưng tôi vừa nói.

Tôi đã từng muốn chết thêm một lần nữa. Nhưng rốt cuộc tôi lại không thể chết được. Và cái giá phải trả, hệt như lời người tình của tôi tại Tokyo từng nói với một giọng buồn bã. “Đã chẳng còn là vấn đề quan trọng nữa. Kết quả chẳng phải đã được xác định rồi hay sao.” Và thời điểm khi tôi nhận ra mình không thể chết ấy cũng là vào một buổi chiều muộn khi tà dương đang dần xuống ở phía xa kia tít về biển tây bắc.

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout