Maizuru mùa này nóng một cách khủng khiếp. Gia đình của cô ấy sở hữu một trang viên không quá rộng nhưng sát biển. Chính vì vậy mà công việc thường ngày của tôi chỉ là ngồi trong căn phòng sáu chiếu trên tầng hai để đọc sách hoặc đi tản bộ ra bờ biển Maizuru nơi trước đây từng là vịnh hải quân của Đế quốc Nhật Bản trong thời kì chiến loạn.
Đột nhiên tôi lại nhớ đến Kim Các Tự. Chính vì nhớ đến nó, khi đôi chân tôi mang dép kẹp đi bộ ra biển, tôi ngoái đầu lại về hướng Kyoto để nhìn. Nhưng đáng tiếc thay cho tôi, một chút bóng dáng của Kim Các Tự tôi cũng không có cách nào để nhìn thấy. Tôi cười một mình. Đôi khi con người để được nhận những chỉ dụ của thần linh thì hẳn là họ phải có cùng tần số hoặc theo cách nói của những người có học qua những lớp huấn luyện về huyền học thì họ gọi là có cùng trường năng lượng. Đó là cách mà những nhà tâm linh học giải quyết các khái niệm nằm ngoài hệ thống khoa học hiện đại một cách chính xác nhất.
“Không cùng trường năng lượng,” tôi ngẫm đi ngẫm lại điều này trong đầu mình. Cách đây tám tháng, một cô gái đã hoàn toàn biến mất một cách kì lạ. Trước khi đi cô ấy nói với tôi những điều vô cùng khó hiểu về khái niệm nhân duyên. Rồi em lại hỏi tôi rằng tôi có tin rằng một người nào đó có thể bị mất định nghĩa ngay trong chính của sống của họ không. Kiểu như người đấy vẫn cứ tồn tại nhưng không một ai có thể biết và hình dung ra họ. Ngay cả cái kiểu suy nghĩ “thì ra người đó là như thế” cũng không sao có thể thực hiện được.
Phải chăng sự mất định nghĩa mà Kikyo đang nói với tôi cùng cái khái niệm không cùng trường năng lượng do một người bạn nghiên cứu huyền học có lẽ là cùng một kiểu suy nghĩ. Kikyo có thể là không phải biến mất đâu. Em ấy có thể là đã không còn cùng trường năng lượng với mọi người ở thế gian nữa, một dạng năng lượng đặc biệt nào đó. Và cái việc tôi vẫn còn có thể nhớ ra cô ấy chắc hẳn là giống với cái cách mà Kim Các Tự hiện ra trong tâm trí của anh chàng Mizoguchi.
Kikyo đã hóa thân thành hình dáng của Kim Các Tự chăng? Trong lòng bồi hồi suy nghĩ, tôi đã bước đến vịnh Maizuru lúc nào không hay.
Biển Maizuru và biển Aomori khác nhau nhiều. Đó cũng không hẳn là một nhận định chính xác nữa. Khi tôi đến Aomori, lúc đấy là vào mùa xuân, chính xác là vào cuối mùa đông. Biển Aomori nằm ở phía bắc, chỉ cách một hải cảng là đã có thể đi Hokkaido rồi, nên mùa đông ở đây có phần lạnh hơn hẳn. Lúc tôi xuống ga tàu hoả, cái lạnh đặc trưng của vùng khí hậu này phả vào hai bên gò má làm cho cơ thể tôi run lên một trận mãnh liệt. Theo trí nhớ đã phần nào bị mài mòn của tôi, ngày tôi đặt chân khỏi tàu hoả để xuống ga Aomori, tuyết có rơi. Những bông hoa tuyết đang rơi những vũ điệu rắc rối trong khoảng không gian chật hẹp của thị trường nơi mắt tôi.
Trước khi đến Aomori, tôi đã nhìn thấy tuyết. Ở Tokyo, sau khi đón Giáng sinh, tôi đã ở nhà suốt kì nghỉ đông từ tháng mười hai cho đến tháng một. Bộ môn Mỹ học Nhật Bản hoàn toàn không khó đối với tôi nên tiểu luận về “Mối quan hệ giữa Đẹp và Buồn trong tiểu thuyết cùng tên của Kawabata đối với xuyên suốt mỹ học Nhật” tôi hoàn thành sớm hơn dự kiến rất nhiều. Và mặc dù hoàn thành sớm như vậy, tôi vẫn đợi cho đến tận cùng của buổi nộp mới thực sự nộp bài.
Đó hẳn là lần đầu tiên tôi thấy tuyết.
“Em lớn lên ở Maizuru. Em có thấy tuyết một vài lần nhưng em cũng không quá chú tâm đến nó.” Người tình của tôi đã nói như thế khi tôi bất chợt hân hoan khi nhìn thấy tuyết rơi lần đầu tiên tại Tokyo. “Không phải là tuyết không đẹp. Một người con gái Nhật Bản như em thường sẽ được người ta nghĩ rằng trong tâm tư và suy nghĩ của chính em sẽ có một chút gì đó là mơ mộng, là vẻ đẹp có đúng không anh? Ngay cả chính anh, lần đầu tiên gặp em, hẳn là anh đã nghĩ về em trong một tình huống cụ thể nào đó.”
Lần đầu tiên tôi gặp cô ấy là vào ngày Anh Đào Kị. Chính xác là một ngày trước ngày hôm đó. Vào đúng ngày kị, chúng tôi đã cùng nhau đi đến chùa Zenrin để thắp hương và cầu nguyện. Đối với tôi, một người phụ nữ Nhật Bản yêu quý Dazai Tiên sinh thì đúng là có phần kì lạ. Nhưng về sau này, tôi mới hiểu ra, Dazai Osamu đặc biệt được nữ giới yêu mến nên chuyện nàng quý tiên sinh không còn kì lạ nữa.
Tôi đã nghĩ mình sẽ ngủ cùng với em một đêm. Phải, đó là suy nghĩ đầu tiên của tôi khi tôi gặp em. Khao khát ấy càng mãnh liệt hơn khi tôi biết rằng người con gái chỉ mới chập chững mười lăm mười sáu tuổi này đã có một tình nhân. Và để đi đến kết luận rằng chính bản thân tôi đã nảy sinh những mong ước về dục vọng cuồng nhiệt nhất đối với cô gái chủ cửa hàng hoa tại Tokyo này khi tôi biết em đã từng mang thai một lần. Tôi chưa bao giờ nhắc đến đứa trẻ đó trước mặt em và tôi cũng chưa bao giờ nhìn thấy nó. Nhưng đối với tôi, phải chăng định nghĩa của đứa nhỏ đó không hề tồn tại đối với tôi nên tôi không nhìn thấy và cũng không cảm nhận được nó. Tốt hơn hết tôi không nên biết và cũng không cần thiết phải biết về cái định nghĩa ấy.
Hoặc là khao khát tình dục với em, hoặc định nghĩa về một đứa trẻ nào đó là một phần của em và một người đàn ông đã biến mất khi đi Aomori. Giữa hai thứ, tôi chỉ có thể chọn một.
Tôi chọn em.
Khoảng gần một tháng sau ngày Anh Đào Kị, tôi và em đã sống cùng nhau. Vì chưa nhập học nên phần lớn thời gian tôi cứ ở nhà suốt. Số tiền cha mẹ ứng trước cho tôi, tôi đã tiêu hết nhẵn vào những cuộc rượu ở bar cũng như việc tìm phụ nữ. Và trong cơn túng quẫn không biết những tháng ngày về sau ở Tokyo tôi sẽ sống ở đâu, tôi đã đến gặp em và đề nghị sống cùng nhau.
Ngày đầu tiên chung sống, em đã đóng cửa hàng. Lý do gì à, em chỉ ghi đơn giản “chúc mừng Anh Đào Kị.” Tôi cũng không biết rằng những người khách mua hoa của em có hình dung ra ngày ấy là ngày gì không và tôi cũng cho rằng một lý do như vậy quả thật có phần rất tùy tiện thậm chí là phi lý. Nhưng biết thế nào được.
Chúng tôi làm tình suốt ngày hôm đó trong căn phòng rộng tám chiếu ở tầng hai của cửa hàng hoa. Khao khát được hòa hợp cũng như mong mỏi được khám phá cho bằng hết những bí mật của một thiếu nữ làm cho tinh thần tôi như phát điên. Em không biết tên tôi. Và tôi cũng không biết tên em. Chúng tôi gào thét bất kì cái tên nào mà chúng tôi nghĩ ra. Và trong giây phút đó, hình như tất thảy nhân gian đã hóa thân thành một dạng khái niệm. Mọi đàn ông trên cõi đời này, là Dũng, là Kashiwagi hay John tất cả đều mất đi định nghĩa của chính mình để hoá thân thành một thực thể duy nhất. Không chỉ đàn ông, đàn bà cũng không thoát khỏi số phận đã được chúng tôi định sẵn trong cuộc ân ái hoang dã. MichiKo, Hiền hay Haylee tất cả chỉ còn là cái tên, một cái tên đại diện cho thứ định nghĩa nào đấy được con người phái sinh từ danh từ chỉ sự vật gốc là đàn bà.
Mùi hương tỏa ra từ cơ thể em hoàn toàn là một thứ mùi say mê. Tuyệt đối say mê. Đó chắc chắn không phải là mùi của một thiếu nữ. Có một thứ gì đó cho tôi sự chắc chắn về điều tôi khẳng định này. Trước khi gặp em, tôi đã từng có một vài mối tình khác. Một cô bạn học cùng sơ trung, một cô bạn học cùng cao trung. Và họ tỏa ra mùi hương giống nhau khi chúng tôi ở cùng nhau. Mùi hương của em hoàn toàn khác.
Là mùi hoa chăng? Mùi hoa bám vào cơ thể em mỗi ngày khi cô ấy tưới chúng, ôm ấp chúng? Hay đó là một thứ mùi thối rữa nào đấy nhưng lại đặc biệt thu hút những sinh vật có cùng thứ mùi thối rữa ấy là tôi?
Sinh vật thối rữa. Một cụm từ miêu tả có ẩn chứa một ý nghĩa nhất định. Phải, khi ở gần em, tôi bị thu hút bởi thứ mùi thối rữa của cơ thể em. Và khi đó, chính tôi đồng hoá bản thân mình thành một thứ cũng giống vậy. Tôi đã mất đi định nghĩa là một con người. Ít nhất là khi tôi ở cạnh bên em. Và phải chăng, người đàn ông đã từng ở bên cạnh em, đã từng được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của em, được ôm ấp và vuốt ve nhào nặn vẻ đẹp ấy cũng đã mất đi định nghĩa của anh ta và biến mất khi đi Aomori chăng?
Biến mất khi đi Aomori. Sự kiện này dù xảy ra trước sự kiện tôi đi Aomori vào tháng hai nhưng có lẽ chính nó đã trở thành điềm báo cho sự việc sắp xảy đến.
“Tiên sinh có chắc là tiên sinh muốn chở em không?” Người con gái dẫn chiếc xe máy ra từ cửa hàng hoa rồi dựng xe trước mặt tôi. Gương mặt nàng có phần nghi ngờ.
“Tôi sống ở ngoại quốc một thời gian nhưng những gì vốn đã trở thành kỹ xảo như chuyện giữ thăng bằng khi đi xe hai bánh hẳn là tôi vẫn còn nhớ.” Tôi cười rồi hút vội cho hết điếu thuốc lá.
Những gì vốn đã trở thành kỹ xảo. Một cụm danh từ có ý nghĩa rõ ràng. Tôi thật sự có những gì vốn trở thành kỹ xảo sao? Văn chương, hay việc ngủ với phụ nữ. Hay cái kỹ xảo mà tôi đang đề cập đến ở đây là cái tinh thần cố hữu của một người đàn ông được lưu truyền qua thời đại. Nỗi buồn chẳng hạn hay niềm đau khổ chốn nhân gian. Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn không hiểu vì sao mình còn đang tồn tại ở đây như một thực thể có ý nghĩa. Phải chăng những thứ vốn trở thành kỹ xảo mà tôi có được còn sâu xa hơn nhiều so với văn chương hay việc làm khổ phụ nữ.
Là la liếm cuộc sống này.
“Thế thì trăm sự nhờ vào tiên sinh vậy.”
Manabe phu nhân cũng nói như thế. Mặc dù hai người, một người là phụ nữ Nhật Bản đã có vợ và có con còn một người còn lại là một thiếu nữ người Việt Nam nhưng cách nói chuyện của họ khi họ muốn dựa dẫm vào một người đàn ông lại hoàn toàn giống nhau. Nếu không kể sự khác biệt ngôn ngữ mà chỉ nói đến tính nhất quán về mặt ý nghĩa của câu chữ thì rõ ràng hai câu nói này chính là cùng một ý nghĩa.
Mẹ của người tình mà tôi gặp ở Tokyo đã vô tình gặp tôi khi tôi đang tản bộ đến vịnh Maizuru vào một ngày hè oi bức. Quả thật, từ trước đến giờ, tôi chưa bao giờ trải qua một mùa hè nào như thế cả. Hồi ở Tokyo, dù thành phố đông dân cư như dường như tôi không cảm thấy bất kì sự nặng nề nào từ bầu không khí xung quanh cả. Tokyo, có những ngôi nhà chọc trời, những trung tâm thương mại, những khu vui chơi luôn tràn ngập người qua kẻ lại. Đường xá luôn phải có ít nhất là một đến hai ngọn đèn được người ta để ở tình trạng thắp sáng. Tokyo, không bao giờ chìm vào bóng tối triền miên. Họa chăng, chỉ có bóng đen của sự vật mới chính là nơi trú ngụ của bóng tối.
Maizuru thì không như vậy. Đặc biệt là ở khu vực vịnh. Nơi sáng nhất của vịnh Maizuru chính là ngọn hải đăng. Hồi còn ở Việt Nam, tôi từng cùng một người bạn đi một số tỉnh ven biển và cũng đã có dịp thăm quan một ngọn hải đăng có bề dày lịch sử. Khi đó, chúng tôi là một nhóm bốn người, hai nam hai nữ. Cả thành phố biển đột ngột mất điện và nguồn sáng duy nhất thắp sáng cả thành phố ấy chính là ngọn đèn hải đăng này. Khi đó, tôi nhớ không lầm tôi và cô bạn thân của anh chàng kia đang vui vẻ ở trong phòng. Và khi thành phố đột ngột không còn ánh sáng, chúng tôi siết chặt lấy nhau như thể đang bám víu vào cái gì đó có sự sống. Rồi trong bóng tối, ngọn đèn hải đăng như thể là lời phán xét cuối cùng của các thiên thần trong kinh thánh đang chiếu vào hai thân xác trần truồng và lén lút phạm tội. Ngọn hải đăng ở Maizuru, rồi có một ngày nào đấy, nó cũng sẽ là thứ ánh sáng chiếu rọi tội lỗi và xóa sạch định nghĩa của tôi về nhân gian.
“Anh không ở cùng con bé sao?” Mẹ nàng hỏi tôi. Hình như bà vừa rời thần xã và chuẩn bị trở về nhà.
“Thưa bác, (tôi nhớ mình không gọi bà là ha-ha mà gọi là o-ji-san) cô ấy không đi cùng cháu.” Và dường như tôi đang cố tránh nhìn thẳng vào trực tiếp người đàn bà trước mặt mình, tôi lãng tránh đi một chuyện khác. “Maizuru nóng thật bác nhỉ.”
“Maizuru, mùa này chưa phải là nóng nhất. Nếu như anh đến vào lễ Bon thì sẽ còn nóng hơn nhiều đấy.”
Bà lấy tay vén mái tóc đang phủ gò má để vắt chúng lên tai. Một người phụ nữ ở lứa tuổi này không gài toàn bộ tóc thành búi cao mà vẫn để một phần tóc của bà xõa như vậy thì có phần hơi lạ. Nhất là khi bà ấy đã có chồng và có con.
Giống với cái cách mà con bé phục vụ trà ở quán trà gần nhà mà tôi đã đến vào hôm trước khi đồng ý đến gặp mẹ của người thiếu nữ bán hoa, phu nhân Manabe dường như che giấu điều gì đó dưới mái tóc được xõa kín vai. Tóc bà rất dày. Nhưng nó lại cho người ta một cảm giác mượt mà kì lạ.
Vịnh Maizuru đang ầm ầm tiếng sóng biển. Những đợt sóng đang vỗ bờ nhè nhẹ đem cát từ đất liền đi ra biển khơi rồi trao đổi lại nơi bờ biển những loài giáp xác, thân mềm. Đâu đó trong những cồn cát khô có, ẩm có, một tia nắng chiếu vào sáng lấp lánh. Hình như có những mảnh thủy tinh từ chai lọ bị người ta uống say vứt bừa ra bãi cát đang lấp ló đâu đó. Như thể một bí mật được chôn vùi giữa biển cát mênh mông. Mái tóc của phu nhân cũng giống như biển cát ấy. Nó đang cố che giấu một đóa hoa cúc bồng bềnh chợt chớm nở giữa một dòng sông đang mượt mà uốn lượn.
“Trời nắng thật đấy.” Tôi đưa tay kéo nhẹ phần cổ áo cho gió thoảng vào lồng ngực. Gió nóng rát.
“Chúng ta lại đằng kia ngồi một chút đi.”
Người đàn bà trong bộ yukata mùa hè có điểm hoa mẫu đơn cùng đàn bướm lượn chỉ tay về phía một căn nhà nhỏ. Ngồi nhà ấy trước đó là chỗ các du khách người ngoại quốc thường chụp ảnh vịnh Maizuru. Ở ngay phần mũi nhọn hướng ra biển vẫn còn dấu vết của những chiếc máy nhòm tiền xu. Loại máy ấy đã bị tháo dỡ sau khi con người ta có cuộc sống khá giả hơn, ai ai cũng có cho mình một chiếc điện thoại di động đủ mọi chức năng.
Tôi nhìn vào những dấu vết ấy. Trong đầu chợt hiện về một câu thơ mà tôi đã được học trong lớp dẫn luận ngôn ngữ học hồi mới tốt nghiệp cao trung. “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo. Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.” Ngày đó, sớm tối phân tích văn chương không biết mệt nghỉ, trong đầu chỉ toàn những khái niệm, những tư tưởng. Bây giờ, khi tôi lê đôi chân qua những miền xa lạ. Như vùng vịnh Maizuru này chẳng hạn. Những ý tưởng đó, những ý niệm văn chương ấy đã bỗng chốc hóa thành vô nghĩa. Phải chăng, những thứ tôi vốn xem là tri thức là báu vật vô giá của những người có học trên thế gian thực chất chỉ là một ảo ảnh, một khái niệm được người nào đó cố tình xây dựng nên để chia tách họ và một thế giới nào đó không có họ. Nếu có một ngày nào đó người ta nhận ra rằng những khái niệm ấy hoàn toàn là vô nghĩa thì có phải họ cũng nhận ra chính sự ngu ngốc của họ khi suốt ngày cứ phải đấu tranh cho nó.
“Con bé thật may mắn khi gặp anh.”
Người đàn bà nói. Giọng bà hòa vào tiếng gió biển ban trưa đang thổi rì rào từ ngoài đại dương vô tận vào dải đất dành men theo vịnh Maizuru. Bà ấy không nhìn tôi. Có cái gì đó bên ngoài kia biển khơi đang cố thu hút ánh nhìn của người phụ nữ ấy. Giống hồi tôi đi Aomori gặp Mihiko. Nàng cũng đứng ở một trạm gác biển và nhìn về phía biển trong một đêm tuyết rơi dày đặc.
“Kikyo?” Nàng đã hỏi tôi bằng một chất giọng cao vút. Đó là một câu mang ý nghi vấn.
“Phải, em đã từng gặp một cô gái tên là Kikyo ở quán bar khu Ginza chưa?”
Khi tôi đến Aomori, tôi mất đến ba ngày để tìm ra người con gái tên Mihiko vừa mới kết hôn và đến vùng này cùng hôn phu. Tôi cũng không hiểu tại sao cả vùng đất Aomori rộng lớn như vậy mà tôi lại có thể gặp được Mihiko vừa đúng lúc. “Nhân duyên,” tôi chợt nhớ đến câu nói cuối cùng mà cô bé tên Kikyo đã nói với tôi trước khi định nghĩa về em ấy biến mất trong tâm tư của những người khác tại nhân gian.
Có thể nói việc tôi thấy được Mihiko chính là một phần của cái dòng chảy mang tên nhân duyên mà tôi và chúng ta đang bồng bềnh, chới với bên trong ấy.
“Con bé thật may mắn khi gặp anh.” Mihiko nói. Nàng nhìn vào cốc trà xanh còn đang bốc khói.
“Vậy là tôi không bị điên hoặc mất trí.”
“Không đâu. Anh vẫn là một người điên và sẽ mãi là một tên mất trí. Chừng nào anh vẫn còn giữ lấy trong tâm trí mình một định nghĩa không còn thuộc về thế gian.” Nàng vẫn nhìn cốc trà xanh. Mới đây khói vẫn còn nghi ngút bốc ra từ nó mà giờ đã chẳng còn thấy đâu. Không có khói, không có nghĩa là nhân gian mất đi định nghĩa về khói. “Kikyo, đã không còn là một khái niệm có định nghĩa ở nhân gian nữa. Nó đã không còn thuộc về thế gian.”
“Tôi thật không hiểu cô đang cố nói với tôi điều gì nữa.”
“Anh sẽ hiểu thôi.”
Nói rồi nàng đứng dậy, cốc trà đã nguội nay lạnh tanh. Tuyết bên ngoài Aomori vẫn cứ đang rơi những điệu múa rắc rối vô thường. Và nắng ở Maizuru vẫn cứ đang chiếu vào da thịt tôi, nóng rát lạ thượng.
“Cháu nghĩ mình mới là người may mắn khi gặp được cô ấy.”
Tôi nhìn về phía biển. Vịnh Maizuru thấp thoáng một cánh buồm nhỏ của con thuyền đánh cá. Cánh buồm xa dần, nhỏ dần, rồi khuất dần. Cánh buồm biến mất trong màn không khí bị bóp méo vì sự bất đồng nhiệt độ. Dù cánh buồm không còn ở đấy nhưng một khi tôi đã nhìn thấy nó đi từ vịnh Maizuru ra khơi, tôi sẽ không bao giờ quên nó. Trong tâm trí tôi luôn ẩn hiện một con thuyền nào đó ở ngoài kia đại dương xuất phát lúc chính ngọ từ vịnh Maizuru và sẽ cập bến một ngày nào đó. Và nếu chính trong tâm tưởng của tôi quên mất sự hiện diện của cánh buồm ấy thì con thuyền vẫn cứ thế mà tồn tại. Là tôi mất định nghĩa về nó chứ không phải là nó biến mất khỏi nhân gian.
Và sẽ ra thế nào nếu như tất thảy nhân gian đều mất đi định nghĩa về một cánh buồm nào đó đang dập dềnh trên con sóng biển khơi xa? Tôi tự hỏi rồi bất chợt nhận ra rằng kể cả có như vậy đi chăng nữa thì bên ngoài định nghĩa mà chúng tôi (nhân gian) quy định về một cánh buồm nào đó thì cánh buồm ấy vẫn cứ thế mà tồn tại thôi. Có thể khi ta mất đi định nghĩa về nó, thì từ đoạn ấy trở về sau nó không còn. Nhưng chẳng phải trước đó nó đã tồn tại sao?
“Cháu vốn là một kẻ chẳng ra gì.” Tôi lại nói tiếp. Trong khi mẹ của người tình vẫn đang như bị hớp hồn bởi một thứ gì đó huyền bí ngoài mặt đại dương xa xăm. “Cháu còn nợ cô ấy năm vạn yên.”
Tầm một tháng sau khi tôi đến cửa hàng hoa mua hoa cho ngày Anh Đào Kị, tôi lại gặp nàng và xin được sống cùng nhau. Sau khi cô ấy đồng ý chuyện ở cùng với tôi, chúng tôi sống với nhau như một cặp tình nhân trẻ. Một người đàn ông tầm hai mươi hai tuổi ở cùng một thiếu nữ mười sáu tuổi đã từng mang thai thì chúng tôi sẽ nghĩ đến điều gì nhiều nhất. Hiển nhiên là chúng tôi nghĩ đến những thứ thuộc về ham muốn. Những ham muốn của tuổi thanh xuân.
Sau mỗi cuộc làm tình, tôi luôn mượn cô ấy năm trăm yên. Con số ấy từ lúc nào đã biến thành năm vạn yên chính tôi cũng không thể nhớ và đong đếm. Cứ cho là vậy đi.
Tôi thường ra ngoài và trở về rất khuya sau mỗi lần làm tình. Hiển nhiên, cô ấy không có ý kiến gì cả. Tôi ra ngoài và lang thang đến những quán rượu. Năm trăm yên không phải là một số tiền lớn. Số tiền ấy nếu như uống một ly con whiskey hay barley thì đã gần nhẵn một nửa rồi. Số tiền còn lại sau khi uống rượu tôi còn phải mua thuốc lá nên khả năng cao để có một nàng hầu rượu gần như là con số không.
Tôi thường đi bộ đến khu Ginza từ Mikata để có thể tiết kiệm thêm một khoản tiền ngồi xe công cộng. Và đôi chân tôi cứ bước đi mà trong đầu không hề có một chút nghĩ suy nào. Đôi chân ấy như thể đã biến thành một kiểu cách của sự tự động hóa. Một kiểu cách mà Kikyo có đề cập đến như “duyên phận”. Đôi chân ấy tự động đi đến quán rượu nơi em làm việc.
Trong mấy tháng đầu tiên khi tôi đến quán này, tôi chưa gặp được Kikyo. Tôi gặp em khoảng tầm tháng mười và sau đó hai tháng, em đã hoàn toàn biến mất như cách mà em nói về chuyện một ai đó đột nhiên mất định nghĩa đối với thế gian.
Suốt khoảng thời gian đầu khi tôi đặt chân đến khu Ginza và vào quán này, ngoài làm tình với cô nhân tình là chủ cửa hàng hoa, tôi có qua lại với thêm một hai cô hầu rượu nữa. Kikyo không nằm trong số đó, lúc ấy, tôi chưa gặp em. Tôi có ngủ với Mihiko một lần nhưng hôm đấy tôi đã rất say nên giữa chúng tôi, về nguyên tắc, và theo tôi, vẫn là chưa có chuyện chuyện gì vượt quá giới hạn. Sau lần gặp đó với Mihiko, tôi gặp Kikyo và kể từ lúc đấy tôi chỉ ngủ cùng với em.
“Tiền thừa này tiên sinh cho em thật à?” Kikyo hỏi tôi. Mắt em sáng lên khi nhìn số tiền một ngàn yên trên bàn.
“Cho em cả đấy.” Tôi nhìn em rồi ôm em vào lòng.
Cơ thể non mềm của em đang hiện thực trước mắt tôi, trong lòng tôi làm cho tôi hoàn toàn ngây ngất. Cho đến tận giây phút này, chính tôi cũng không bao giờ có thể quên được sự hiện diện của em thời khắc đó. Những ước vọng thuở thiếu thời, những mộng tưởng về tương lai và khoái lạc dục tính nơi hiện tại đều hiện hữu trên một con người bằng xương bằng thịt đấy. Vậy mà chỉ hơn hai tháng sau, định nghĩa về em đã hoàn toàn bị nhân gian xóa bỏ. Giống như con thuyền đánh cá rời khỏi vịnh Maizuru, em đã hoàn toàn thoát khỏi sự trói buộc của nhân gian để hóa thân thành một thứ gì đó nằm ngoài hệ thống định nghĩa của họ. Có lẽ là tự do hoặc cũng có thể là sự giam cầm. Nhưng tôi chắc chắn dù là gì đi nữa thì nó cũng đạt đến thoát ly tối thượng.
“Em ôm tiên sinh có tiện không vậy?”
Bất chợt, cô gái chủ cửa hàng hoa tôi gặp hôm hai chín tết hỏi tôi. Lúc bấy giờ, xe của chúng tôi đang chạy đến đoạn nối giữa hai con đường Nam Kì Khởi Nghĩa và Nguyễn Thị Minh Khai. Gò má nàng theo cơn gió nhẹ rít qua kẽ hở giữa tôi và nàng bất chợt lay động. Gò má ấy chạm nhẹ vào lưng áo tôi. Nhẹ nhàng, mềm mại hệt như một đóa hoa cúc đang bồng bềnh trôi giữa biển hoa mênh mông đầy sắc màu.



Bình luận
Chưa có bình luận