Bồng bềnh hoa cúc - 4



Tôi bắt chuyến tàu đầu tiên đi Aomori từ đầu tháng hai. Đó là khoảng thời gian tôi đột nhiên cảm thấy mình giống như bị mất đi một thứ gì đó rất quan trọng.

Ở Tokyo, tôi chỉ kịp để lại một giá thư dài cho tiểu thư Manabe với nội dung đại khái rằng mình sẽ đi Aomori và ở đấy một khoảng thời gian.

“Kính gửi tiểu thư Manabe  (tôi không nhớ tên của nàng)

Vì sự việc trọng đại mà tôi đã phải rời đi một cách đường đột như vậy. Nhưng tiểu thư đừng lo lắng, bản lề bị hỏng ở cánh cửa bên trái cửa hàng tôi đã bỏ cả ngày thứ ba được rảnh rỗi không phải lên thư viện trường để sửa lại cho em rồi. Cả hai thùng hoa thủy cúc và mẫu đơn tôi cũng đã giao đến khu Ikejiri và khu Asakusa rồi đấy. Cũng mất kha khá thì giờ nhưng tôi nghĩ việc này sẽ giúp cho em ít nhiều trong khoảng thời gian tôi đi Aomori.

Tôi đi vội trong đêm vì vé tàu cuối tháng đã bán gần hết. Em biết đấy, tháng sau là tháng ba, các sinh viên sẽ lại trở về Tokyo học sau kì nghỉ xuân nên vé tàu cứ thế mà tăng giảm tùy thích. Chính vì tôi cũng muốn tiết kiệm một khoảng khá khá gần ba ngàn yên, tôi đã mua ngay chuyến tàu cuối cùng đi Aomori ngay trong đêm hai mươi tám. Thật là một quyết định có phần nhanh chóng và thiếu suy xét em nhỉ.

Ba ngàn yên còn sót lại sau khi tôi cầm chiếc máy hát ở khu chợ trưng thu đồ cũ của người Hoa tôi có để trong ngăn kéo của cái tủ chìm. Em có thể lấy số tiền đó mà sử dụng. Còn về cái máy hát đó thì tôi cũng không cần lắm đâu.”

Thật ra, việc tôi để lại ba ngàn yên đó chỉ là một trò lừa gạt trá hình. Tôi đã đem một số đồ đạc trong nhà đi cầm và dĩ nhiên người con gái mà tôi sống cùng với cô ấy đã không hoàn toàn nhận ra những sự thiếu vắng ấy.

Vì sao tôi lại có chuyến đi Aomori này sao? Nó cũng giống như câu hỏi vì sao tôi lại quay về Việt Nam vậy. Và nếu như quả thật tôi có một câu trả lời nào đó có thể vừa khít với loại câu hỏi như thế này thì tôi đã không phải đi cầm những món đồ ấy để có thể mua được một chiếc vé đi Aomori trong đêm. Hiển nhiên, câu trả lời cho câu hỏi về Việt Nam cũng tương tự như thế. Một mối nghi hoặc mơ hồ nào đấy hoặc một niềm tin siêu hình cho những lý lẽ không sao giải thích được bằng tư duy khoa học hẳn sẽ là một câu trả lời vừa đủ cho loại câu hỏi như trên.

“Chồng tôi đã đi Aomori hồi hai năm trước và không thấy trở về.”

Khi tôi đến cửa hàng mua hoa để viếng mộ văn hào Dazai Osamu, tiểu thư Manabe đã nói với tôi như thế. Giọng của nàng, không vui cũng không buồn. Giống như thể nàng chỉ đang nhắc lại một sự việc nào đấy như một cuộn băng chiếu chậm lại các cảnh phim. Hành động khi ấy của em làm cho tôi có cảm giác em đã mất đi những khái niệm về cái gọi là vui hay buồn trong chính sự kiện đi Aomori và mất tích của người chồng.

Khi được tôi hỏi về chuyện em tin hay không tin những lời đồn thổi ác ý của thế gian thì cô ấy không nói gì cả. Dường như cô ấy chấp nhận tất cả mọi lời ấy như cách mà tên vô lại Oba Yozo từng nói trong tiểu thuyết “Thất lạc cõi người.” “Bị người ta nói xấu, tôi sẽ xem đó là một lời thật lòng và giữ nó ở đáy tim.” 

“Em không tin điều đấy một chút nào cả.” Nàng ngập ngừng và đưa mắt nhìn tôi. Những món đồ được tôi mua đã nằm gọn trong túi nhưng tôi được nàng bảo rằng tất cả đã được thanh toán và tôi không cần phải trả bất kỳ khoản tiền nào. “Nhưng tiên sinh biết không, tại sao em lại cứ có cảm giác rằng người ấy chỉ là đang chơi trò trốn tìm với em thôi.” Vừa nói, em lại ngập ngừng. “Cứ như thể là anh ấy tồn tại ở bất kì nơi nào, như một cơn gió ấy và chỉ duy nhất một mình em là không nhận ra điều ấy thôi.”

“Em có hai nghìn yên không?” Tôi hỏi.

Đột nhiên hỏi một người con gái đang thổ lộ những điều gần như là bí mật của cô ấy việc cô ta có hai ngàn yên không quả là một câu hỏi vô cùng bất lịch sự. Đáng lẽ tôi phải hỏi thăm em ấy về người đàn ông kia hoặc ít nhất cũng nói những điều an ủi tâm hồn em đại loại như “Mọi việc rồi sẽ ổn thôi” hoặc là “em không nên buồn bực làm gì cái loại người ấy.” Nhưng không hiểu sao, ngay lúc này tôi lại chọn một chủ đề không hề liên quan đến toàn bộ nội dung cuộc độc thoại của em để mà nói.

“Em có.”

“Thế em có sẵn lòng đi cùng tôi đến mộ văn hào Dazai Osamu và đóng cửa hàng một buổi hôm nay không?”

Em im lặng không đáp.

Chuyến đi Aomori của tôi cũng vậy. Dù tôi đã để lại một lá thư nêu rõ mọi việc nhưng tiểu thư Manabe vẫn cứ như lần đấy, không nói gì và cũng không gửi cho tôi bất kì tin nhắn hay thư từ gì báo hiệu rằng cô ấy đã nhận được thư cả. Khi ngồi trên chuyến xe đi Aomori, tôi có cảm giác em đã quen với việc này rồi. Cái cảm giác tôi đang dần trở thành một người đàn ông sẽ rời xa em vào một ngày nào đó để đi đến Aomori xâm lấn tôi từng chút một. Liệu rằng, khi tôi rời đi như vậy, định nghĩa về tôi, một sinh viên Nhật Bản học đã lợi dụng lòng tốt của em để tá túc trong căn hộ chỉ có em sống cùng nỗi buồn không sao cắt nghĩa sẽ biến mất trong tâm trí em không? Hay chính tôi vốn dĩ đối với em từ trước đến giờ không hề có bất kì một định nghĩa nào.

Khi tôi đến Aomori, trời bắt đầu trở lạnh. Một làng quê Nhật Bản đang chìm trong tuyết trắng xóa của trận tuyết lớn nhất kể từ ba bốn năm trở lại đây. Một khung cảnh im lìm hệt như thành phố đang ngủ yên dưới màn tuyết trắng. Sự lung linh sắc màu của nơi này tựa hồ một chiếc mặt nạ được trang điểm cẩn thận. Nó được khoác lên diện mạo của thành phố như thể đang cố gắng che đậy điều gì đó bí mật khủng khiếp bên dưới lớp băng tuyết tinh khôi.

Cái chết. Đột nhiên tôi nghĩ đến điều này.

“Mihiko cùng với một người đàn ông đã kết hôn và đi Aomori. Nhưng cơ hồ họ đang lên kế hoạch cho một cuộc tự sát đôi hơn là một cuộc hôn nhân.” Tôi nhớ lại lời của người quản lý quán bar khu Ginza khi tôi nói với anh ta về việc tôi đã nhầm tên của Mihiko với Kikyo.

Tự sát đôi sao? Thật là hoài niệm quá.

“Em và tiên sinh, chúng ta cùng tự sát đi.” Trong bóng tối, giọng của người đàn bà đang cố lấy hơi lại sau một cuộc lâm trận hơn hai giờ liền cùng tôi vang lên mệt mỏi.

“Nếu đó là cách tốt nhất để chúng ta xóa sạch tội lỗi đã gây ra.” Tôi khẽ hôn lên trán nàng.

Đó là lần đầu tiên tôi được ngủ cùng một người phụ nữ Nhật Bản. Và đêm đó tôi mới thực sự hiểu cái câu “ở nhà Tây, ăn đồ Tàu, lấy vợ Nhật” mà ông bà đã dạy. Một đêm mà dù sau này tôi có mắc phải chứng bệnh đãng trí hay trí nhớ cục bộ thì bộ não có thể quên đi tất cả nhưng những sợi dây thần kinh cảm giác đang chạy và thống trị những xúc cảm sướng, khổ, vui, buồn trong tôi sẽ không bao giờ quên được.

“Nhưng tự sát là phạm tội với Chúa đấy.” Em đã nói với tôi như thế khi vùi cái đầu nhỏ xíu vào ngực tôi. Mặc dù không nhìn thấy rõ gương mặt em trong không gian hẹp và ánh sáng khiêm tốn, tôi có thể tưởng tượng ra được một khuôn trang kiều diễm với những đường nét rõ ràng dù em đã ngoài ba mươi.

Tôi đặt biệt chú ý đến cái mũi cao của em. Thật khó khăn cho em khi chúng tôi ở cùng nhau đêm đó với chiếc mũi này. Mặc dù là một người phụ nữ đã có kinh nghiệm trong lĩnh vực chăn gối, bằng chứng là em có con, không chỉ một mà đến tận hai đứa, em vẫn tỏ ra cực kì khó khăn và làm tôi phải khúc khích cười nhiều lần trong lúc hành sự. Quả tình, khi chúng tôi cùng nhau phạm tội, trong tâm thế của những người trốn chạy, lòng ngập tràn ý nghĩ bội phản những con người mà cả tôi và em đã thề sẽ yêu thương suốt cuộc đời, tôi phải tỏ ra một sự nghiêm túc nào đấy để phù hợp với hoàn cảnh mới phải. Nhưng rốt cuộc, khi cái mũi của em rà rà đến da thịt tôi, cảm giác nhột nhạt khó tả khiến cho cuộc trốn chạy lẽ tự nhiên lại trở nên buồn cười và mất đi tính nghiêm trọng vốn có của nó.

“Chẳng phải tội thì chúng ta đã phạm rồi sao?” Tôi nói, hai tay vẫn đặt lên tấm lưng trần đang nép sát người tôi vì lạnh. “Thêm một tội nữa thì cũng có là gì đâu chứ?”

“Có lẽ, em sẽ có tội nhiều hơn anh đấy.” Em lại vùi đầu vào lồng ngực tôi.

“Nhưng chính anh là người đã nhầm lẫn trước.”

Ngực tôi hơi đau. Dạo này, tôi hút thuốc nhiều hơn hẳn. Và chính tôi cũng ốm đi trông thấy. Khoác bộ pijama được khách sạn chuẩn bị, nhìn từ trong gương tôi có thể thấy rất rõ những đường nét của xương đang lồ lộ trên thân thể tôi hệt như bức tranh chụp của nhà văn Yukio Mishima trong một quyển sách nào đấy mà tôi từng đọc nhưng đã quên mất tên rồi.

“Anh ốm đi nhiều đấy.” Người con gái rời đầu xa khỏi ngực rồi rồi lấy bàn tay nhỏ nhắn của nàng vuốt ve lên bộ ngực phanh trần vì áo pijama quá đỗi rộng thùng thình.

“Em đã gặp anh được bao nhiêu lần đâu mà nói là anh ốm đi nhiều.” Tôi cười rồi ngồi dậy. Tôi đưa tay với lấy bao thuốc lá gần đó rồi châm lửa hút.

Trong ánh sáng xẹt qua của cái bật lửa, dường như tôi hình dung ra một gương mặt méo mó vì hiệu ứng ánh sáng. Tuy nhiên, gương mặt ấy ngay lập tức bị bóng tối hút vào trong như thể gương mặt và bóng tối là một phần của nhau. Trong bóng tối, con người ta hình như không còn định nghĩa được ánh sáng là gì cả. Mất định nghĩa về ánh sáng. Có lẽ là vậy. Mặc dù tôi vẫn hình dung ra được ánh sáng là thế nào nhưng ngay bây giờ, tôi không cảm nhận được nó. Ánh sáng, có lẽ là định nghĩa gốc để sản sinh ra tất cả những định nghĩa khác chăng. Và một khi ta không còn có thể định nghĩa được về ánh sáng, ta sẽ mất đi hết toàn bộ mọi khái niệm kéo theo của chúng. Cái đẹp, tình yêu, cuộc sống, toàn bộ mọi định nghĩa về những thứ gần gũi ấy sẽ biến mất.

Kikyo và chồng (tạm gọi như vậy) của tiểu thư Manabe chắc hẳn là cũng đã biến mất như vậy đấy. Một kiểu mất định nghĩa về họ. Hay nói đúng hơn, ánh sáng phát ra từ họ đã không còn chiếu đến mắt để tôi hay tiểu thư Manabe có thể nhận ra được nữa. Hoặc cũng có thể nói là cầu mắt của chúng tôi đã sản sinh ra một lớp màng ngăn cách, như cách bạch cầu phát hiện vật thể lạ, chọn lọc những tia sáng có thể truyền đến. Một sự gãy khúc chọn lọc phản khoa học.

“Tiên sinh có rảnh rỗi vào chiều thứ tư không?”

Trước khi tôi đẩy cửa rời khỏi hiệu hoa để tiếp tục cuộc bộ hành ra quận Ba, người con gái đứng ở quầy thu ngân chợt hỏi tôi. Khi tôi quay gót trở vào, em đã thôi làm những việc lặt vặt nên tôi có thể nhìn rõ gương mặt em lúc này.

Đó là một thiếu nữ có phần đáng yêu. Dù gương mặt em bình thường nhưng đấy cũng là một món quà của tạo hóa. Hai mắt không quá đặc sắc chỉ kẻ chì nhẹ ở phần đuôi, cái mũi gọn gàng, không cao không thấp, gò má ửng đỏ kiểu e thẹn hoặc cũng có thể là dặm phấn nhẹ hai bên, đôi môi mỏng được thoa son bóng.

Tóc em dài đến chấm lưng, trên mái tóc cài băng đô kiểu Âu châu. Mặc dù nó không phù hợp lắm với tà áo dài màu vàng nhạt thêu hoa mà em đang mặc trên người nhưng thành thực mà nói, cái băng đô ấy lại làm cho em trở nên dễ thương một cách kì lạ. Một kiểu thu hút người khác giới.

Tóc em mượt quá. Đó là suy nghĩ của tôi khi bất chợt gió thổi từ máy điều hòa trong cửa hàng thổi qua tóc em là chúng bay lên không trung. Khi đợt gió qua đi, những lọn tóc ấy lại nhẹ nhàng chạm lưng như chưa hề có cuộc hỗn loạn. Mái tóc như một dòng suối. Nếu lúc này, tôi ngắt vội một đài hoa cúc và cài lên tóc em, chắc hẳn đóa hoa cúc ấy sẽ trôi bồng bềnh trên làn thu thủy rồi chạm đến đáy của dòng thác mềm mại kia mất thôi.

“Tôi, cũng không có việc gì làm.”

“Tiên sinh cùng em đến gặp mẹ em một chút nhé?”

Đó là lời đề nghị của một cô gái trẻ tuổi đã nói với tôi trong một dịp cận Tết Nguyên Đán thế này. “Hôm nay, mẫu thân của em từ Maizuru đến thăm, tiên sinh giúp em nhé!” Tôi chợt mơ màng lại hình ảnh tiểu thư Manabe đang nằm trong lòng tôi, vừa hổn hển, vừa thút thít.

Phải, chúng tôi sẽ diễn một vở kịch cho phu nhân Tsukiko Manabe.

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout