Chương 4


 

 

Đêm thứ nhất, tư dinh Phong Lan.

Tiếng kèn đám tang rít lên từng hồi ai oán, như thể nghe gió lùa qua khe hẹp giữa cõi sống và cõi chết. Giai điệu chậm, kéo lê từng nốt buồn, làm người nghe thấy tê tái trong lòng. Tôi đứng bên ngoài hiên, lặng lẽ quan sát đám đông đang lần lượt bước vào ngôi nhà, không ngờ đông hơn tôi từng hình dung. Họ ra vào như đi chợ phiên, áo dài, khăn tang, mùi nhang khói và mùi nước hoa lẫn vào nhau, tạo nên một hỗn hợp lờ lợ, nửa trang nghiêm, nửa giả tạo.

Không khí nhộn nhịp đến mức khiến tôi bối rối. Người ta trò chuyện, bắt tay, thậm chí cười nhẹ khi gặp nhau như những cuộc gặp gỡ xã giao cũ kỹ, chỉ thiếu mỗi tiếng cụng ly.

Lạ thay… Không một tiếng khóc vang lên.

Không một tiếng nức nở nào xé toạc sự im lặng của nỗi mất mát thật sự. Không ai oà lên, không ai gục xuống. Tất cả cứ như một vở kịch đã được tập dượt kỹ lưỡng. Những gương mặt đưa tiễn ông Bá hầu như không có lấy một nét đau đớn rõ ràng chỉ là biểu cảm vừa đủ, những cái cúi đầu đúng mức, những bước chân chậm rãi có chừng.

Một đám tang dường như không có một giọt lệ. Không có một ai khóc, như thể tất cả họ đang che giấu điều gì.

Tôi nhìn từng người bước ngang linh cữu. Một vài người trong số họ tôi đã nghe tên, có người từng gặp, có người hoàn toàn xa lạ. Họ đều mang theo những ánh mắt lấp lửng như vừa thương tiếc, vừa canh chừng. Không ai nhìn thẳng vào linh cữu quá lâu. Không ai đứng lại quá gần.

Đám tang ấy, với tôi, không mang mùi đau thương mà nồng nặc mùi nghi hoặc.

Và tôi biết giữa những lời viếng lạnh nhạt và cái xác đang yên nghỉ trong quan tài gỗ sơn trắng kia, là cả một sự thật đang bị giấu kín. Một sự thật có thể nằm trong ánh mắt ai đó, trong cử chỉ vô thức của một người thân, hoặc trong một cái bắt tay không cần thiết.

Tôi đứng ở một góc khuất gần cột gỗ, nơi vừa đủ để thấy hết gian nhà trên mà không bị ai để ý đến sự hiện diện của mình. Người viếng tang cứ lần lượt tiến đến linh cữu, cúi đầu, đặt bó hoa hoặc nén nhang, rồi quay đi không ai nán lại quá lâu. Nhưng giữa những chuyển động tưởng chừng như bình thường ấy, có vài cử chỉ khiến tôi phải để tâm.

Người thứ nhất là ông Huỳnh, bạn cũ của ông Bá, từng nghe thầy tôi nhắc đến như một người đồng cấp có nhiều kỷ niệm cũ. Lúc bước tới quan tài, ông Huỳnh nhìn vào mặt người chết, không quá một giây, rồi vội quay đi, môi mím chặt, tay siết lại. Nhưng lạ là sau đó ông không đi hẳn, mà rẽ ngang ra sau vườn, nơi không ai để ý. Tôi đánh dấu ông vào trí nhớ, vì một cái nhìn quá nhanh có thể do sợ hãi… Hoặc thấy điều gì bất thường.

Người thứ hai là bà Yên, tức bà cả. Bà xuất hiện sau khi được dìu ra từ phòng nghỉ. Khuôn mặt tái xanh, ánh mắt lạc thần. Điều đó không lạ. Lạ là lúc đứng trước linh cữu, bà không cúi đầu, cũng không vái lạy. Bà đứng lặng một lúc lâu, rồi lẩm nhẩm điều gì trong miệng. Đó không phải kinh cầu nguyện. Tôi dám chắc. Đó là một lời độc thoại? Hay một sự trấn an với người chết? Và khi rời đi, bà không quay đầu lại lần nào. Thường thì người thân đau buồn hay nhìn lần cuối, còn bà tuyệt nhiên không.

Người cuối cùng khiến tôi chú ý là cậu Tú. Cậu ta lo toan đủ điều, ra dáng người trưởng tử chu toàn. Nhưng tôi để ý ánh mắt của cậu cứ liên tục liếc về một người đàn ông lạ ngồi ở dãy cuối cùng. Một người đàn ông mặc áo vest xám cũ, đội nón thấp, không nói chuyện với ai. Ánh mắt người đó nhìn cậu Tú rất lâu, không chớp gì hết cứ như một hồn ma yên lặng từ phương nào tới đây. Và mỗi lần như thế, cậu Tú đều nuốt nước bọt, lảng tránh rất nhanh.

Tôi bắt đầu hiểu, trong ngôi nhà đầy người này, cái chết của thầy tôi không phải là thứ duy nhất khiến người ta mất ngủ mà dần dà về sau có những thứ mà đến cả tâm linh cũng không giải thích được ra đó là gì…

Cho tới khi tôi chầm chậm bước tới linh cữu, lấy một nén nhang rồi thắp lên vái lạy cho linh hồn người đã khuất, tôi lẩm bẩm trong miệng mấy câu khấn nhỏ, thầm mong nếu thầy có linh thiêng thì xin hãy phù hộ cho tôi, cũng như một số người còn lương tâm khác, tìm ra kẻ đã gây nên bi kịch này. Tôi biết không dễ dàng. Hung thủ chắc chắn vẫn đang đứng đâu đó quanh đây như một vị khách quen, hay một gương mặt thân thuộc với tất cả, ngoại trừ lương tâm hắn.

Tôi chắp tay thêm lần nữa, rồi lặng lẽ lùi ra phía sau. Khi ấy, một người nữa tiến lên, một cậu thanh niên trẻ măng, mới chừng hơn mười lăm, mười sáu tuổi, nhưng vóc dáng cao lớn, gương mặt sáng sủa. Dáng đi tự tin, gần như là kiêu ngạo. Tôi nhận ra cậu ta đi cùng với cậu Tú từ lúc nãy, nhưng vì bận để tâm đến bà cả nên giờ mới chú ý kỹ.

Lát sau, có người ghé tai tôi thì thầm: "Thằng Thịnh đó, cháu ruột ông Bá. Con của bà em út bên họ ngoại."

Thằng Thịnh… Nghe quen quen. Rồi tôi sực nhớ.

Thịnh là một cái tên từng được nhắc đến nhiều trong mấy câu chuyện trà dư tửu hậu quanh vùng này. Tay chơi có tiếng, học hành thì dở dang, vừa bị đuổi khỏi trường tư ở Sài Gòn vì gây chuyện với giáo viên và bạn học. Lại thêm tiếng xấu vì dính líu đến cờ bạc. Có lần ra Hà Nội chơi, cậu ta bị bắt gặp nợ tiền một đám thanh niên dưới chợ Đồng Xuân. Nhưng lạ lùng thay vì sao cậu vẫn được đưa về đây, đường hoàng như một người thân thiết trong tang lễ, thật là kỳ lạ hết sức.

Tôi nhìn cậu cúi đầu trước linh cữu mà lòng không khỏi hoài nghi. Dáng cúi đầu của cậu quá chậm gần như là diễn. Một tay bỏ trong túi áo, mắt chỉ liếc nhìn quan tài đúng một cái, rồi quay bước đi nhanh đến độ bất kính. Không một lời cầu nguyện. Không một nén nhang.

Tôi lặng lẽ quan sát thêm. Khi cậu vừa bước khỏi bàn thờ, tôi thấy cậu khẽ liếc về cuối hành lang trái, nơi có căn phòng cũ ông Bá từng dùng làm chỗ làm việc riêng và mới đây là phòng tạm của bà Yên. Có điều gì đó lóe lên trong mắt cậu, một sự lo lắng chăng? Hay là cậu sợ hãi? Hay một tính toán nào nữa mà tôi chưa bao giờ biết?

Tôi ghi lại điều đó trong đầu.

Có lẽ, Thịnh không đến đây chỉ để viếng. Và cái nhìn thoáng qua ấy, có thể là đầu mối tiếp theo sau bà Yên cậu Tú mà tôi phải để tâm và nghi ngờ, à mà cả người đàn ông lạ mặt và ông quản gia già tên An nữa, tất cả đều được tôi ghi nhớ và viết vào một cuốn sổ đầy cẩn thận.

Trời bây giờ thanh tịnh lắm. Một lớp sương mỏng như tấm khăn liệm phơi ngang bầu trời xám bạc, trải nhẹ xuống vòm cây bên khu nhà chính. Gió thổi nhè nhẹ làm những chiếc lá khô lạo xạo trôi trên nền sân lát gạch, nghe như bước chân ai đó rón rén đi giữa cõi tạm và vĩnh hằng.

Ở đâu đó vọng lại vài tiếng quạ. Mấy con quạ đen sì, vừa bay sà xuống chóp mái, lại cất lên những tiếng rên rỉ như lời điềm báo. Chúng không vội vã kêu mà kêu từng tiếng một khản đặc, lê thê, nghe như âm vang của một linh hồn lạc lối đang gõ cửa trần gian, báo tin có người mới rời bỏ cõi đời.

Tiếng quạ nghe thê lương đến rợn người.

Tôi đứng lặng bên thềm, mắt dõi theo chúng. Trong những buổi tang lễ, con người có thể khóc hay không khóc, gào thét hay làm thinh, nhưng lũ quạ thì bao giờ cũng xuất hiện như một thứ bản năng của sự chết. Chúng đến đúng lúc, như thể được gọi bằng thứ tín hiệu vô hình nào đó.

Tôi chợt thấy lạnh gáy. Không phải vì gió, mà là vì thứ cảm giác lẩn khuất đang chực lấp ló giữa bóng tối như thể có ai đó đang âm thầm dõi theo từng cử chỉ, từng lời thì thầm cầu nguyện, từng bước chân tiến lại gần quan tài.

Một cái chết chưa lời giải. Một căn nhà đang mang linh khí của u minh. Và bầy quạ, chúng biết rõ hơn ai hết linh hồn của người khuất đang còn vương vấn điều gì chưa thể rời đi. 

Ai mà biết được, đằng sau những tiếng quạ kêu ghê rợn kia còn ẩn giấu điều gì? Có thể đó là điềm báo, hay chỉ là tiếng vọng mơ hồ của một sự thật chưa được phơi bày. Nhưng tôi thì tin vào trực giác và trực giác mách bảo rằng mọi thứ chưa dừng lại ở đây.

Càng điều tra sâu vào, tôi càng thấy mình như đang lội xuống một vùng đầm lầy. Mỗi bước tiến là một vết lún, và càng lún thì càng lộ ra nhiều thứ nhầy nhụa, mờ ám hơn. Những điều ban đầu tưởng như rời rạc giờ đang dần kết lại chắp nối thành một bức tranh nhòe nhoẹt, nhưng không thể nào làm ngơ được nữa.

Một ngày trôi qua, tưởng dài mà chẳng đủ để khai phá được bao nhiêu. Những đầu mối còn lỏng lẻo, những gương mặt tình nghi vẫn chưa hé lộ gì nhiều ngoài lớp vỏ bình thản. Nhưng ít ra tôi cũng đã nhặt được vài mảnh ghép đầu tiên. Một vài lời thì thầm bị bỏ sót. Một dấu chân không khớp. Một ánh mắt thoáng chệch đi khi ai đó nhắc tới tên ông Bá.

Tất cả còn mơ hồ, nhưng chính sự mơ hồ ấy lại càng làm tôi không thể dừng lại. Có điều gì đó đang giấu mặt trong căn nhà này và tôi sẽ là người lôi nó ra ánh sáng.

Bất giác, một cơn gió lạnh rít lên từ đâu đó lùa thẳng vào phòng khách, rờn rợn như một bàn tay vô hình lướt qua làn da. Tôi rùng mình, cảm giác lạnh buốt len sâu tận xương sống. Dòng người dự tang vẫn lặng lẽ tiến vào, bước chân khẽ khàng, khuôn mặt ai nấy đều giữ một vẻ tôn kính khó dò, nhưng với tôi, trong sự lặng lẽ đó lại phảng phất một thứ bất an không gọi được thành tên.

Tôi ngẩng lên nhìn chiếc đồng hồ treo tường đối diện tám giờ tối. Mặt đồng hồ cũ kỹ run rẩy theo nhịp gió, cây kim nhích từng bước chậm rãi như đang đếm ngược về một thời khắc định mệnh. Tôi nghe đâu khoảng một giờ nữa sẽ là giờ kinh đêm, giờ thiêng liêng mà người ta tin rằng linh hồn người đã khuất có thể nghe thấy những lời cầu nguyện sau cùng.

Các linh mục đã an tọa bên ngoài, áo lễ đen tuyền ôm sát thân người, gương mặt nghiêm cẩn như tượng đá. Trong khi đó, cậu Tú và ông quản gia An vẫn tất bật với khách khứa, vẻ mặt chăm chú một cách cứng nhắc. Dường như cả hai đang cố giữ cho lễ tang này diễn ra trọn vẹn, không để lọt một chi tiết lạc nhịp nào.

Bà Yên, người vợ góa của ông Bá, vẫn chưa xuất hiện trở lại. Tôi liếc về phía hành lang nơi dẫn tới phòng nghỉ, cánh cửa khép hờ để lộ ánh đèn vàng nhạt, đủ thấy thấp thoáng bóng áo blouse trắng, một nhóm bác sĩ và y tá đang ra vào thầm lặng. Điều đó khiến tôi không khỏi ngờ vực. Tang lễ thường không cần đến bác sĩ, trừ phi có chuyện gì ngoài lề đang xảy ra trong căn phòng ấy…

Thật là nực cười, tôi nghĩ thầm trong đầu, nhưng không thể bật cười nổi giữa một khung cảnh tang lễ lạnh lẽo và đầy mưu mô thế này. Chính bà ta là người chủ động mời tôi về đây để hỗ trợ cảnh sát trong việc điều tra cái chết của ông Bá. Lẽ thường thì người đưa ra lời mời nên là người có mặt ở đây nhiều nhất, để sẵn tiện mỗi khi tôi cần hỏi gì, chỉ cần quay lại là gặp. Vậy mà từ lúc bà ngất xỉu vì một lý do không rõ ràng, tôi chẳng còn thấy bóng dáng bà đâu nữa ngoài vài câu cập rập của người hầu kẻ hạ rằng bà đang được chăm sóc.

Tôi không tin vào sự tình cờ. Một người vừa mới mời tôi về điều tra lại đột ngột ngã bệnh ngay vào lúc tôi chuẩn bị bắt đầu truy xét các mối nghi vấn đầu tiên liệu đó có phải là một cơn choáng thật, hay là một cách né tránh tinh vi? Một sự trốn chạy khỏi những ánh mắt soi xét, khỏi những câu hỏi mà bà biết tôi sẽ không ngần ngại đặt ra? 

Những chuyện như thế này, nếu không tự mình chứng kiến, không tự tai nghe, mắt thấy, thì người ngoài không bao giờ hiểu được bản chất thực sự của nó. Và cái đau đầu ban chiều… Liệu là do cú sốc tinh thần, hay là do bà ta đã nhìn thấy điều gì đó điều gì đó từ mấy bước chân kinh hoàng đến mức tâm trí không gánh nổi?

Giữa lúc tưởng chừng như mọi đầu mối đang dẫn vào ngõ cụt, thì ánh mắt tôi vô tình bắt gặp Thịnh đang lặng lẽ rời khỏi gian phòng chính. Cậu ta đi một mình, không nói với ai câu nào, không mang theo vật gì trong tay. Dáng đi thong thả nhưng cặp mắt lại đảo quanh, như thể đang canh chừng điều gì đó.

Tôi chau mày. Lạ thật. Giờ này ai nấy đều túc trực dưới nhà, người nhà thì bận tiếp khách, kẻ quen thì ngồi trò chuyện, vậy mà cậu ta lại lẳng lặng lên lầu như trốn tránh điều gì. Nếu chỉ đơn thuần lên viếng tang, thì chẳng phải cậu đã làm từ lúc mới vào hay sao?

Tôi cảm thấy có điều bất ổn. Một thứ linh cảm mơ hồ trỗi dậy, quen thuộc như những lần tôi sắp chạm đến một sự thật bị giấu kín. Lương tâm hay đúng hơn là bản năng của một kẻ từng chạm mặt nhiều vụ kỳ bí bảo rằng tôi không thể ngồi yên được nữa.

Thế là tôi đứng dậy, bước lặng lẽ theo sau, giữ khoảng cách vừa đủ để không gây chú ý. Tôi muốn biết Thịnh định làm gì trên lầu và quan trọng hơn, tại sao lại phải làm trong âm thầm như thế.

Tôi men theo bậc thang gỗ cũ kỹ dẫn lên tầng trên, bước chân cố gắng nhẹ đến mức không phát ra tiếng. Bóng Thịnh thoắt ẩn thoắt hiện phía cuối hành lang, ánh đèn dầu vàng úa trên tường chỉ đủ soi ra một vệt sáng lờ mờ. Cậu ta dừng lại trước một cánh cửa căn phòng từng thuộc về ông Bá rồi nhìn quanh một lượt. Tôi kịp né người vào sau bức rèm treo trên hành lang, tim đập thình thịch vì cảm giác bất an.

Cánh cửa ấy hé mở, tiếng bản lề kêu một tiếng “két” khẽ nhưng nghe rợn người trong im lặng. Thịnh lách vào trong, cẩn thận đóng lại phía sau. Tôi bước đến gần hơn, ghé tai áp vào cánh cửa gỗ đã bạc màu. Một thoáng im ắng trôi qua… rồi vang lên những âm thanh lạch cạch như tiếng mở ngăn kéo, sau đó là tiếng giấy sột soạt cậu ta đang tìm kiếm thứ gì đó!

Tôi không thể gõ cửa, càng không thể ập vào, bởi mọi hành động vội vàng lúc này đều sẽ khiến cậu ta cảnh giác và có thể thủ tiêu những gì mình đang cố giấu. Thế nên tôi chỉ có thể đợi.

Vài phút sau, cánh cửa lại hé mở. Tôi kịp lùi nhanh vào khoảng tối đối diện. Thịnh bước ra, tay trái cầm một phong thư nhỏ màu vàng đã cũ, cạnh bị rách một góc như thể bị ai đó vội xé dở. Ánh mắt cậu ta không còn vẻ ngông nghênh thường ngày, mà ánh lên nét lo âu lẫn giằng co. Rồi cậu vội vàng nhét bức thư vào trong áo vest, quay đầu bước xuống trở lại tang lễ như chưa có gì xảy ra.

Tôi đợi cho đến khi tiếng bước chân cậu tan hẳn trong âm vang lễ tang dưới lầu, mới rón rén đẩy cửa phòng ông Bá. Căn phòng yên ắng, thơm mùi gỗ cũ và giấy tờ. Tất cả mọi vật gần như được giữ nguyên, nhưng có một ngăn kéo đang bị mở hờ, bên trong chỉ còn vài tờ giấy trắng.

Bức thư mà Thịnh mang đi đã từng nằm ở đây.

Tôi thở ra một hơi dài. Vậy là tôi không sai có điều gì đó trong thư, hoặc một bí mật, khiến Thịnh không thể để người khác biết. Và nếu vậy… Phải chăng cái chết của ông Bá liên quan đến chính thứ mà cậu ta vừa giấu đi?

Cái bộ dạng và hành động bí ẩn của Thịnh càng khiến tôi không thể ngồi yên thêm được nữa. Những dấu hiệu ban đầu có thể là ngẫu nhiên ánh mắt tránh né, bước chân vội vàng, bức thư cũ rách một góc nhưng trong thâm tâm tôi biết, trực giác của mình chưa bao giờ sai. Cậu ta có liên quan. Ít nhất là với một phần nào đó trong chuỗi sự kiện dẫn đến cái chết kỳ lạ của ông Bá.

Tôi bước xuống lầu, trở lại khoảng không tang lễ đang dần lắng xuống sau khi người viếng đã thưa dần. Đêm đã khuya, tiếng chuông nhà thờ xa xa vọng lại hoà với vài tiếng gió rít qua hàng dừa ngoài sân nghe như một tiếng thở dài mệt mỏi. Tôi thấy Thịnh đang ngồi cùng vài người họ hàng, tỏ vẻ bình thản, nhưng tay vẫn vô thức siết nhẹ chiếc cúc áo ở ngực trái  nơi tôi đoán bức thư đang được giấu kín.

Tôi quyết định chưa hỏi cậu ta ngay. Không phải vì e ngại, mà bởi đêm nay chưa phải lúc thích hợp. Một lời tra hỏi lúc này có thể khiến Thịnh dựng lên một hàng rào phòng thủ, hoặc xóa bỏ luôn dấu vết của những điều cậu đang che giấu. Tôi cần một cuộc gặp riêng, khi đầu óc cậu không bị phân tán bởi khách khứa, nghi thức hay những cặp mắt soi mói xung quanh.

Vậy nên tôi thầm đánh dấu: sáng mai. Sáng mai, khi đám tang đã bước qua cao trào, khi con người ta dễ buông lỏng cảnh giác nhất… tôi sẽ thu xếp để gặp riêng cậu Thịnh. Tôi sẽ không để sự thật tiếp tục bị giam trong một phong thư nhàu nát, hay trong đôi mắt của một kẻ giấu giếm điều gì đó như cậu ta.

Nếu ông Bá thực sự đã cố viết điều gì trước khi chết… thì chính Thịnh là người cuối cùng biết được điều đó.

Dòng người bắt đầu vơi đi, chỉ còn lác đác vài nhóm ngồi rải rác ở khoảng sân trước nhà, nơi những chiếc ghế nhựa xếp tạm vẫn còn vương mùi nhang khói và tiếng thì thầm. Tôi nhìn ra, thấy ai nấy đều thấm mệt sau một ngày dài ảm đạm, bước chân trở nên chậm chạp như chính nỗi buồn đang len lỏi giữa những tán cây tối đen xào xạc gió đêm.

Phía trong gian nhà chính, các linh mục đã sẵn sàng. Từng bước chân áo chùng đen lặng lẽ tiến vào gian giữa, tay cầm thánh giá và sách lễ, nét mặt trầm mặc đến lạnh người. Họ bắt đầu chuẩn bị cho giờ kinh đêm.

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout