Buổi sáng hôm nay, tôi thức dậy sớm hơn thường lệ. Cái tiếng chuông nhà thờ cuối con phố vang lên từng hồi, ngân dài như vỗ nhẹ vào những lớp tường đá trong ngõ hẹp. Tôi đã quen với âm thanh ấy, hằng định nó như một phần trong cuộc sống thường nhật vốn có của tôi mỗi sáng sớm.
Nhiệt độ lúc này báo chỉ 14 độ C, cũng không quá lạnh nếu như so với năm ngoái. Élise khoác áo bành tô dáng dài màu camel, thêm một chiếc khăn choàng cổ vải sọc caro đỏ, cúi xuống hôn nhẹ lên trán tôi, bỏ lại một mùi hương thoang thoảng dịu nhẹ của dầu gội hương thảo.
“Em đi đây. Nhớ ăn sáng nhé.” Cô ấy khép cửa, tiếng gót giày xa dần.
Trong lúc bận rộn dọn dẹp bàn ăn ngay sau bữa sáng, theo thói quen tôi đều dạo ra ngoài hít thở khí trời trong sân nhỏ, cũng tiện tay kiểm tra hộp thư gỗ đặt ngoài ngõ.
Giữa đống tờ quảng cáo rời rạc, có một phong bì màu kem ngả vàng hình chữ nhật. Ở góc trên bên phải đính tem nổi Clair de Lune sur la Lunefranc (“Ánh trăng trên dòng Lunefranc”) màu xanh ngọc bích, bên dưới là dòng chữ “République de Valmorain – Post Aérienne” in thanh mảnh. Tên tôi được viết ngay ngắn ở giữa phong bì, chữ in hoa mềm mại bằng mực xanh navy, nét bút hơi run như viết trong một đêm gió lạnh vậy. Mép sau được dán kín bằng sáp màu rượu vang, in dấu nổi hình một nhành oải hương ôm trọn một ngôi sao năm cánh.
Một cảm giác tò mò không kém, tôi lật nhẹ phong bì trong tay. Bên trong là một tờ giấy gấp đôi, người gửi là Maxence Delaunay. Chà! Là cậu ấy, người bạn chung chăn nối khố của tôi từ thưở còn trung học cho đến những năm tốt nghiệp Học Viện Mỹ Thuật Clairmont.
Tôi vẫn không thể nào quên được cái sự hài hước của cậu ta. Có lần trong một lần ngoại khóa năm ba, cả lớp kéo nhau ra ngoại ô phía nam để vẽ phong cảnh bên bờ hồ Ánh Sao. Ai cũng chuẩn bị đầy đủ cọ, bảng màu, giấy vẽ… ngoại trừ Maxence, cái cậu chẳng bao giờ chịu lên kế hoạch trước cả. Đến nơi mới phát hiện hộp màu nước ở nhà, thế là Maxence đứng chống nạnh đúng ba giây rồi… biến mất khỏi tầm mắt. Nửa giờ sau, cậu quay lại với một túi nilon lủng lẳng toàn là, vỏ củ dền, lá rau bina, và một lọ mực đã dùng quá nửa nhặt được từ một tiệm đồ cũ ven đường.
Thế là cậu ngồi ngay xuống, nghiền nát củ dền để lấy màu đỏ, ép lá rau cho ra màu xanh, còn màu đen thì pha mực với nước hồ. Cứ như vậy, bức tranh sau đó của cậu ta nhìn thì… hơi giống bản đồ kho báu bị bỏ quên dưới đáy biển vậy, nhưng lại khiến toàn thảy lớp một phen cười phá lên, đến mức thầy còn cho hẳn chín điểm vì “tính sáng tạo và khả năng ứng biến ngoài đời thực.”
Cậu ta có tố chất của một họa sĩ tài năng nhưng chẳng bao giờ chịu đi theo con đường định sẵn. Cậu thích la cà quán xá, đi đây đi đó bắt chuyện với người lạ, lang thang khắp những ngõ nhỏ chưa ai biết. Nói cho cùng, cậu ta chẳng mơ thành danh họa hay mong cầu sự nổi tiếng, mà muốn dành cả đời được xách balo đi khắp nơi, tìm những câu chuyện kỳ lạ để kể lại với những tâm hồn đồng điệu. Maxence, vẫn luôn như thế.
Nhiều năm trôi qua, dù rằng mỗi người đều có cuộc sống riêng nhưng chúng tôi vẫn thường xuyên liên lạc thư tín mỗi hai tháng, cũng để biết được người còn lại vẫn ổn, chỉ như thế là đủ. Trong thư cũng không có gì khác ngoài lời hỏi thăm sức khỏe tôi và Élise. Cậu ta áy náy vì vừa trở về Orvigne không được mấy ngày lại phải đi ngay và chưa thể ghé thăm hai vợ chồng chúng tôi. Để lại bức thư và một tấm ảnh màu.
Đó là một bức ảnh chụp ở một nơi nào đó, một nhà thờ đá cũ, tháp chuông vươn cao bên cạnh quảng trường lát đá xám. Kèm theo đó là vài dòng viết tay:
“Nơi này ở rìa phía đông ngoại ô, cách thành phố không xa. Nhà thờ mới hoạt động trở lại, người ta mới khai quật phát hiện ra quảng trường cổ bên cạnh. Nếu có hứng, thử đến xem. Ảnh không thể lột tả hết đâu. Tôi nghĩ cậu sẽ thích nó.”
Tôi nhìn bức ảnh khá lâu. Không phải vì kỹ thuật chụp, mà là vì ánh sáng và khoảng trống trong bố cục. Nó giản dị, nhưng dưới mắt tôi nó có một chút hoài cổ của thời đại cũ, nét đẹp xưa luôn làm con người ta phải xúc cảm mà.
Hơn hai tiếng lái xe. Quả thật đã khá lâu tôi chưa từng đến vùng rìa phía đông bên kia thành phố. Con đường nhựa chỉ có thể tới được đây. Phía trước là đường mòn, xe không thể tiến vào. Thế nên tôi quyết định đi bộ vào trong.
Xung quanh đã là vùng nông thôn ngoại ô, đã không còn nghe tiếng hối hả của phố thị nữa rồi. Thi thoảng bắt gặp một vài người đàn ông ăn mặc giản dị tay cầm cuốc đi vào những mảnh vườn màu mỡ. Con đường lát đá vụn dẫn ra khỏi trục đường chính, nó dần thu hẹp, để lộ những dải đồng cỏ xanh trải dài đến tận chân trời. Vài bụi oải hương tím mọc thành cụm, hương thơm nhẹ theo gió sớm. Những ngôi nhà nhỏ mái ngói đỏ nằm rải rác, tường quét vôi trắng đã ngả màu thời gian, khung cửa sổ viền gỗ treo ít giỏ phong lữ đỏ thắm.
Trông về xa hơn là hàng bạch dương thẳng tắp chạy dọc theo con mương, phản chiếu xuống mặt nước tĩnh lặng như tấm gương. Tiếng chuông nhà thờ ở cuối làng chợt vang vọng, hòa cùng tiếng chim sơn ca ríu rít trên nóc mái. Thấm cái mùi đất ẩm và nhịp sống chậm rãi, đơn sơ như chưa từng bị thế giới vội vã chạm tới.
Khi tới nơi, tôi tìm được đúng cái vị trí như trong ảnh: một bệ đá cao, chỉ vài bậc là có thể nhìn toàn cảnh quảng trường cổ. Ở xa một chút, cái dải màu xanh uốn lượn quanh chân thành phố như con rắn chính là sông Lunefranc thân thuộc thuở nào. Còn trước mặt tôi, là nhà thờ đá cổ với tháp chuông sừng sững như điểm neo của toàn cảnh.
Bày giá vẽ, giấy màu nước, lại bắt đầu phác đường nét, bố cục, mảng sáng tối, quy luật xa gần. Những thao tác quen thuộc khiến đầu óc tôi chùng xuống, như thể chỉ còn lại nhịp cọ và mùi màu loãng. Tôi là một con dân của trường phái ấn tượng, thứ màu tôi mang lại luôn tươi sáng, nhưng lại luôn thích tìm cách để nỗi buồn len vào từng lớp màu. Bởi tôi nghĩ, có lẽ chỉ khi như vậy, con người ta sẽ dễ trải lòng và thấm hơn về giá trị của những bức tranh.
Có thể mọi người sẽ nói tôi nhạy cảm, nhưng đúng là như vậy. Tôi nhạy cảm với những đường nét mà tự nhiên khắc họa vào thế giới này, để tôi có thể cảm nhận và đồng cảm, mang cái nhạy cảm đó vào từng bức họa, không chỉ thỏa mãn xúc cảm của tôi mà còn hơn thế nữa, để người khác cũng có thể “chạm” được cái góc nhìn đầy tính nghệ thuật ấy.
Không rõ từ bao giờ, bên cạnh tôi đã có bóng dáng của một người phụ nữ khoảng ngoài tứ tuần, dắt theo một chú corgi béo tròn màu vàng kem sữa. Cô không nói gì cả, chỉ đứng yên ở đó hướng ánh mắt xa xăm về quảng trường. Tôi thầm đoán hẳn cô cũng đang ngắm nhìn về cảnh đẹp đó hoặc… ngắm cả cách tôi đang vẽ nó. Sự hiện diện ấy lặng lẽ nhưng lại khiến tôi càng tập trung hơn.
Gió chiều dần lạnh, mặt trời trượt sang bên kia bầu trời. Không biết tôi đã ngồi đây bao lâu, khi ngẩng lên và thật bất ngờ khi cô ấy vẫn ở đó. Sự tinh tế tối giản của một người đàn ông lịch lãm làm nghệ thuật không cho phép tôi có thể ngó lơ một tâm hồn yêu cái đẹp như vậy. Chúng tôi hỏi vài câu xã giao, sau một khoảng lặng, cô đáp lại bằng một giọng trầm:
“Có những con đường… bước mãi vẫn nghe tiếng sỏi quen dưới gót. Nhìn lại thì mọi dấu chân đều chồng khít vào nhau, như chưa từng rời đi.”
Giọng cô ấy mơ hồ tựa như đang nhớ về một chuyến đi không ai khác chứng kiến.
“Có khi, mọi thứ quanh ta chỉ là mặt nước phẳng. Khi cúi xuống… thấy một dáng hình ở đâu đó, một khoảng khắc nào đó, rồi lầm tưởng mình vừa chạm tới được điều mới mẻ.”
“Đến một lúc, chẳng ai còn biết ai đang níu giữ ai lại… hay ai đã bỏ ai đi.”
Một nốt lặng trong phút chốc, tôi còn đang mải nghĩ đến những lời nói đó, cô ấy quay sang chỉ vào bức họa màu nước của tôi:
“Có những thứ… chỉ tồn tại khi ta còn nhớ đến chúng. Bức vẽ của anh… giữ lại điều mà người ta thường không để ý. Anh vẽ tháp chuông rất có hồn. Nó, là nhịp tim của cả khung cảnh quảng trường này.”
Lời khen đó khiến tôi khựng lại. Khi tôi chưa kịp hỏi thêm, cô ấy đã mỉm cười chúc tôi may mắn rồi bước đi, để lại tiếng chân chó lạch bạch trên đá.
Tôi chớp mắt, nhìn lại nhà thờ đá. Mặt trời vừa khuất đường chân trời sau rặng mây, nhìn vào đồng hồ chỉ sáu giờ năm lăm phút chiều, tôi đoán cũng sắp rồi.
Đứng đó một lúc như thằng dở người, chẳng có gì xảy ra cả. Trời đã nhá nhem. Tiếng chuông không hề được đánh như dự đoán. Lạ nhỉ? Nhưng đã quá giờ rồi cơ mà? Nhìn vào giờ từ chiếc điện thoại thì đã bảy giờ mười phút. Lại nghĩ rằng mình đang chờ đợi cái gì cơ chứ, hơi kỳ lạ nhưng có lẽ nơi đó thật sự không làm việc vào buổi tối, cười mỉm nơi khóe môi, tôi ngẩng đầu lên nhìn kỹ hơn.
Không có tháp chuông nào cả? Chỉ còn mái nhà thờ cụt lủn, trơ trọi dưới ánh chiều tà mập mờ cuối chân trời.
Tôi lùi lại một bước, dụi mắt thật mạnh chỉ để nghĩ rằng đôi mắt tôi đã mờ dại đi vì vẽ tranh. Vẫn vậy. Một cảm giác lạnh ngắt chạy dọc sống lưng. Tôi cúi xuống cái bức tranh vừa hoàn thiện, nó đẹp, trầm buồn… nhưng không hề có tháp chuông. Tay tôi khẽ run khi cố rút ra tấm ảnh Maxence gửi sáng nay. Rõ ràng nó vẫn ở đó. Giờ thì… y hệt ngoài đời và cả trong tranh: một mái đá trơn, như chưa từng có gì khác.
Tôi không còn có thể bình tĩnh, không còn có thể tin vào đôi mắt trần trụi của chính mình được nữa. Cơn đau đầu ập xuống, nặng như búa bổ. Tôi ngã khuỵu xuống đất, cái điện thoại trong túi áo rung giật, là Élise. Ơn Chúa là cô ấy đã gọi vào lúc này.
“Nói cho anh, em có nghe thấy tiếng chuông nhà thờ không?” Tôi gắng giữ giọng bình tĩnh như để xác nhận một chuyện mặc dù câu hỏi của tôi nghe có vẻ hơi ngớ ngẩn và không liên quan.
“Sao… nhà thờ lại phải đánh chuông? Nhà thờ nào có đánh chuông đâu? Gần tám rưỡi tối rồi, về nhà không thấy anh, em có chút bất an nên gọi. Anh sao vậy? Có ổn không?” Tiếng cô ấy hơi rè vì nơi này sóng có vẻ yếu.
Trong đầu tôi bấy giờ rất hỗn loạn, nhưng phải lấy chút bình tĩnh để an ủi Élise rằng tôi sẽ trở về ngay, rồi cúp máy.
Cứ mỗi lần nghĩ đến “tháp chuông” thì cơn đau đầu kinh khủng ập tới, hành hạ tôi khốn khổ. Cái hình ảnh đó, cái âm thanh đó như vừa bị kéo rút ra khỏi tôi. Tôi muốn chống cự, nhưng… càng như thế tôi lại phải chịu đựng cơn đau thấu óc.
Khẽ nuốt xuống cơn buồn nôn, bất giác tôi nhớ lại nụ cười thoáng qua của người phụ nữ trên bệ đá. Một thứ gì đó vừa bị lấy đi, ừm, không chỉ khỏi quảng trường này, mà là khỏi chính tôi.
Bình luận
Chưa có bình luận