“Chồng yêu dấu, em có để chút bánh mì thịt nhân đậu trong khay bàn. Nhớ dùng thêm sữa tươi hâm nóng nhé.”
Mảnh giấy nhỏ được dán trên cánh tủ lạnh, nét chữ nghiêng nghiêng quen thuộc. Bàn tay vẫn vô thức vuốt nhẹ mép giấy như thể tôi có thể cảm nhận cô ấy đang ở đây. Élise Morell – người vợ xinh đẹp dịu dàng, cũng là người tôi yêu thương nhất đời này.
Cũng lại là một ngày nhàm chán như bao ngày khác, cô ấy thức dậy khá sớm, loay hoay chuẩn bị bữa sáng cho tôi và rời khỏi nhà để làm việc.
Bọn tôi cũng dành khá ít thời gian thật sự cho nhau nhưng điều đó không khiến cho tình cảm giữa chúng tôi trở nên phai nhòa hay xa cách. Mặc dù tôi không hiểu những công việc mà cô ấy đang làm cho lắm nhưng như thế cũng chẳng sao cả. Tôi tôn trọng cô ấy, ừm, và cô ấy cũng vậy. Có thể vì lẽ đó mà chúng tôi mới duy trì được căn nhà nhỏ này suốt mười năm trời.
Tôi ngồi xuống bàn ăn. Ánh sáng sớm len lỏi qua rèm cửa, rọi lên mặt bàn bằng gỗ sồi đã sẫm màu nâu. Bánh mì vẫn còn hơi mềm, thịt bò trộn nhân đậu được phết vừa khít không thừa một li. Tuyệt cú mèo!
Tôi nhai chậm, vừa nhai vừa ngắm bức tường đối diện, nơi có treo một bức tranh phong cảnh tôi từng vẽ: một ngọn núi tuyết cao chót vót và ngay bên dưới là mặt hồ xanh ngắt không gợn chút sóng. Hễ khi nào tôi ngồi đây, thì tôi luôn có một cái cảm giác, một ánh nhìn, như thể bức tranh đó nhìn tôi nhiều hơn tôi nhìn nó. Có vẻ như… nó vẫn còn thiếu chút gì đó, hoặc là do ít nhất tôi cảm thấy thế. Có một điều gì lấp lửng cứ thôi thúc tôi sẽ phải quay lại nơi đó một lần nữa.
Sữa tươi nguội nhanh hơn tôi nghĩ. Tôi bật bếp hâm lại một lần nữa, nhưng đứng đó, tay cầm nồi, còn mắt thì dừng lại trên ô cửa sổ hình vuông. Ngoài kia là con hẻm dài dẫn ra đại lộ Allée. Người qua lại tấp nập, tất bật với nhịp sống hối hả của chốn đô thị, và dĩ nhiên họ chẳng mảy may có thể trôi vào dòng suy nghĩ bây giờ của tôi được.
Yên tĩnh, đó là thứ tôi cảm nhận được, hệt như đang xem một màn diễn kịch câm của huyền thoại Marcel Marceau giữa phố vậy. Nó tĩnh lặng đến mức tôi nghe rõ cả tiếng sôi lục bục của nồi sữa nóng. Nhiều khi tôi tự hỏi, có khi nào thế giới này chỉ thực sự “sống” chỉ khi tôi thức dậy không? Há, có lẽ là tôi bị điên thật rồi.
Tôi mang theo giá vẽ. Hôm nay, tôi muốn đi ra hồ nước lớn phía đông thành phố Orvigne xinh đẹp. Sự hứng thú trỗi dậy khiến tôi không thể bỏ lỡ cơ hội này.
Trên đường, tôi ghé qua quán cà phê nhỏ. Bà chủ mỉm cười, hỏi như mọi lần:
Cốc cà phê bốc khói. Tôi nhấp một ngụm, vị đắng dịu chảy qua cổ họng lan xuống ngực giống như đang cố mở một ô cửa nhỏ trong trí óc. Cái mùi vị quen thuộc đậm đà này tôi đã thấm suốt mười năm nay. Thú thật, tôi không hề mong là thế nhưng nếu xui rủi sau này bà ấy không còn có đủ sức khỏe để bán nữa, khéo tôi cũng phải gom góp đủ tiền để mang cho kỳ được cái hương vị này về cho riêng tôi, bằng mọi giá.
“Hôm nay cậu Morell phải ra ngoài thành phố sao?” Bà già móm mím cái hàm không còn chiếc răng nào, cười mỉm chi.
Tôi gật đầu tự mãn. “Đi tìm lại chút hương vị cuộc sống thôi bà ạ!”
Chuyến đi tìm cảm hứng mất tới gần bốn giờ đi xe, luôn là vậy. Mỗi lần đến đó, tôi đều có cảm giác mình đang ngồi ở đúng chỗ, vào đúng thời điểm, hẳn phải có một mối liên kết vô hình nào đó giữa tôi và nơi này. Như luôn có một vị trí dành riêng cho tôi, không giành giật, không bon chen mà là nó vốn thuộc về tôi.
Phải mất thêm ba mươi phút đồng hồ từ bìa rừng mới vào được đến hồ. Chao ôi! Phải nói một điều là, nó quá ư là thơ mộng. Cái từ “đẹp” thật quá thô thiển và khiêm nhường để mà gói gọn được cái chất phiêu, chất lãng mạn khi nói về sự ưu ái của mẹ thiên nhiên dành tặng cho nơi này.
Mặt nước phẳng lặng như một tấm kính mỏng. Bên kia hồ mạn trái là từng hàng phong đang mùa đổ lá, ánh vàng cam thếp vào từng dòng chảy nắng dịu buổi xế chiều đọng lên mặt hồ xanh mơn mởn. Thỉnh thoảng một vài con cá hồi nâu tung bắn khỏi mặt nước đớp con mồi, cảnh tượng khá là hiếm thấy.
Tôi chọn một bãi cỏ đủ xanh, hơi ướt một chút có lẽ vì đêm qua đã có một trận mưa như trút đổ. Đặt giá vẽ bên cạnh, tiện tay hớp một ngụm cà phê đắng, dự là nó sẽ giúp tôi tỉnh táo cho đến lúc đi về.
Hướng bàn tay trông về phía bên kia hồ, đánh tầm mắt lên cao một góc chín mươi độ, chính là cảnh tượng y như trong bức họa treo trong nhà mà tôi từng vẽ trước đây. Ngọn Écarlune trắng xóa hùng vĩ mà cô độc, sừng sững mọc lên chắn cả bầu trời phía đông.
Nếu tôi đứng từ vị trí này, vào tiết Thu phân giờ chiều xế, mặt trăng sẽ mọc sớm hơn một chút. Cái màu cam ám trời chiều của hoàng hôn làm nền cho ánh trăng treo trên đỉnh núi bị khuất bóng, khuất một góc nhỏ tạo ra cái thị giác như một cái bánh đu quay khổng lồ. Thật hoành tráng, lộng lẫy, và biểu tượng biết bao, cũng như cái tên “Trăng Máu” mà dân bản địa đã đặt cho ngọn núi này.
Cá là không chỉ tôi, nếu là bất kỳ một thợ vẽ nào hay thậm chí đơn giản chỉ là những người yêu nghệ thuật, yêu cái đẹp sẽ phải thốt lên rằng: A, nơi này là một tuyệt tác của tự nhiên. Nếu mà phải nói, tôi thừa nhận bản thân chưa đủ “chất nghệ” để mà mô phỏng lại phong cảnh trước mắt tôi đây.
Quả đúng như cảm giác của tôi từ trước, tôi cần phải ở đây, ngay lúc này, để hoàn thiện cái “thiếu sót mà tôi muốn nhìn thấy”.
“Julien! Lần trước mày vội vã để làm gì cơ chứ. Đây mới gọi là cái đẹp!” Tôi tự thốt lên trong sự tự xấu hổ chính mình.
Nét cọ đầu tiên bao giờ cũng khiến tôi cảm thấy an toàn, như một lời xác nhận rằng thế giới này là thật, mọi thứ mà tôi cảm nhận đều là thật, và tôi cũng vậy, ít nhất tôi tin là như thế.
Mặt nước lăn tăn bởi tia gió mỏng vì vù từ cánh rừng phía trước, phản chiếu bầu trời ánh cam sắc, những tán lá phong rơi lã chã đọng trên mặt hồ. Tôi đưa từng nét cọ, pha trộn ánh bạc nhạt vào màu núi tím bị đổ màu trời ngả đêm, hòa vào một chút ánh vàng cam nền của hoàng hôn chưa tàn.
Không một ai quanh hồ. Xung quanh chỉ còn lại tiếng nước chạm vào bờ đều đặn, giống như một nhịp thở rất lâu đời.
Tôi thu dọn khi trời chuyển sẫm hơn. Mặt trời đã khuất núi từ lâu, để lại ánh trăng bạc mờ soi lối tôi đi. Thành phố cũng đã bắt đầu lên đèn, những con đường dẫn về nhà tôi uốn lượn như dòng sông Lunefranc thanh khiết, lấp lánh ánh sáng chốn thành đô.
Về đến góc nhỏ đầu phố Noirelys, tôi gọi một ly cà phê đen như thường lệ, kết thúc chuỗi ngày cảm xúc hoài niệm dâng trào bất chợt. Trong lúc chờ đợi, tin nhắn gọi tới từ chiếc điện thoại di động bật nắp, là Élise. Chưa cần nhấc máy tôi cũng thừa biết cô ấy sẽ gọi vào giờ này nếu như tôi còn chưa có mặt ở nhà.
Giọng cô ấy vang qua loa điện thoại: “Em biết anh đang về nhà, sẵn tiện ghé mua ít hành tươi và một ít bia nhé. Trong tủ lạnh hết sạch rồi. Yêu chồng!”
Không hiểu sao mỗi lần tôi nghe thấy cô ấy nói là cảm giác mệt nhọc dần tan biến, sự ấm áp đó xoa dịu đi cái lạnh trời đêm phủ lên từng ngóc ngách thành phố Orvigne này. Ly nhựa ấm trong tay, hơi nước bốc nhẹ. Tôi nhấp một ngụm, cảm giác lan tỏa khắp miệng, mượt mà, đậm, và… êm.
Tôi đỗ xe ở khoảng trống bãi đậu gần siêu thị chỉ cách nhà vài trăm mét, tiện tay mang theo ly cà phê còn sót chút đáy rồi lê bước dọc đại lộ Glacemer, vừa nhấp vừa đi bộ. Élise cần nhờ tôi ghé mua ở siêu thị vì cô ấy đã mải nói chuyện với hàng xóm gặp trên đường suốt cả chiều nay.
Khá là lâu rồi, tôi chưa từng dạo phố vào ban đêm như thế này. Cái mùi đặc sệt phố chợ: hơi khói từ xe đẩy, mùi xiên nướng cháy dở, hương bột giặt tỏa thơm nồng nặc đến cay mũi từ bên kia tiệm giặt ủi Vent de Lin, vương lại cả trên áo của những người qua đường.
Cuối cùng cũng tới, biển hiệu NOVA MART viền đèn neon xanh tím bên ngoài, tương phản rõ rệt cái ánh đèn trắng lạnh tràn xuống sàn gạch bóng ở bên trong.
Ở gian hàng gần cửa, một cặp tình nhân trẻ đứng tựa vào kệ bánh snack, trông như bước ra từ bìa một tạp chí đường phố. Cậu con trai thì mặc cái áo hoodie đen rộng bụi bậm, cười nghiêng ngả trước điều gì đó thì thầm vào tai cô gái. Cô gái thì tóc nhuộm xanh khói, mắt kẻ sắc, tay lơ đãng xoay chai rượu Cuvée đế bành.
Bất giác tôi lắc đầu cười, bọn trẻ này đã đủ tuổi để uống cái thứ đó chưa nhỉ?
Thoáng nhìn rồi rẽ vào khu bày rau củ. Lấy vài nhánh hành, ít gói gia vị, tiện tay khua luôn ít chai bia trong tủ lạnh. Ngay khi đi thẳng ra quầy thu ngân thì ánh mắt tôi vô tình chạm phải kệ bày bán socola dán mác hạ giá. Loại này… tôi đã từng ăn nó rồi, nhưng dường như là đã quên mất vị của nó. Kỳ lạ? Ngày trước, vị của nó làm tôi nhớ mãi. Không rõ vì sao lại thôi, nhưng tôi lại vươn tay thó một thanh bỏ vào giỏ.
Chốc lát cũng đến lượt xếp hàng thanh toán, cô gái nhân viên thu ngân mỉm cười:
“Hôm nay đang khuyến mãi đấy. Loại này là nguyên chất 100%, rất ngon, hăng và mềm.”
“Hăng và mềm.” Tôi lặp lại thầm trong đầu, thấy nó có vẻ hơi… thiếu. Giống một câu thơ mà khi bị bỏ đi mất vần cuối vậy. Tôi suýt như nhớ ra một từ nữa, đứng sau “hăng”, đứng trước “mềm”, nhưng chẳng tài nào có thể gợi ra, cố nghĩ thì nó trượt tuột luôn khỏi ý thức, để lại khoảng rỗng trơn tru vô định.
Đứng ngay ngoài cửa siêu thị, tôi không thể chờ để ăn nó. Bốc lớp giấy bạc, bẻ một miếng cho vào miệng. Socola tan đều ra, đúng chuẩn là 100% nguyên chất, không có một tý nào gọi là ngọt cả. Một cái gì đó đáng lẽ phải đến ngay sau đó, nhưng không. Cái mùi hăng hắc nguyên vị… tôi định nghĩ đến một từ gì đó, một mảng ký ức luôn nhắc tôi đáng lẽ nó phải ở đó nhưng lại không tìm được từ để diễn tả.
Tôi nhai nốt, bất giác cười nhẹ. Không hiểu vì sao mình lại nhớ đến một buổi tối rất xa, rất xưa, nơi bàn tay ai đó từng đặt lên bàn tay tôi một thanh socola giống hệt.
Bình luận
Chưa có bình luận