Sáng Chủ Nhật có gió mạnh, trời mưa.
Trời vẫn mưa khi Benjamin tỉnh dậy.
Anh vô thức tự sờ soạng mặt mình, xác định là không phải mê ngủ mà đã thực sự tỉnh dậy. Đôi tất anh đi tối qua trước khi lên giường vẫn trắng trẻo sạch sẽ, nếu tối qua anh thực sự đi chân trần chạy ra khỏi phòng thì không thể nào không bị lấm bẩn được. Cửa phòng ngủ của Benjamin vẫn đóng chặt, không hề mở toang như trong giấc mơ chập chờn giữa đêm.
Tối qua, anh mơ thấy cửa phòng của mình mở toang.
Tiếng gió mưa đập vào cửa sổ kính làm anh tỉnh giấc. Benjamin mơ màng mở mắt ngồi dậy, tưởng như mình đã nghe thấy tiếng bước chân rất nhẹ của một ai đó bên ngoài phòng khách. Anh đã tính nằm xuống ngủ tiếp luôn, nhưng rồi tiếng kẽo kẹt khẽ khàng vang lên trong bóng tối mịt mùng làm tim anh khẽ thắt lại và nhận ra cửa phòng mình đã mở từ khi nào không biết. Benjamin không bao giờ quên khóa cửa phòng. Anh luôn luôn sợ những thứ bên trong khu rừng tối ấy sẽ bò ra và quay trở lại tìm mình. Vậy là ai đã mở? Không thể nào chỉ là gió được. Anh lật chăn ra trèo xuống khỏi giường, quên cả đi dép, cứ thế chạy chân không ra ngoài phòng khách.
Phòng khách lạnh lẽo, ngay cả cửa chính cũng mở toang. Gió mưa hắt vào nhà đến tận giữa phòng, ánh chớp nháng lên soi tỏ những cái bóng ma quái của đồ vật im lìm.
Abel đâu? Anh gõ cửa phòng hắn, khẽ gọi. Không có ai đáp.
Cửa khóa.
Anh đập cửa, vẫn không có lời hồi đáp.
Benjamin lùi ra xa khỏi cánh cửa đóng kín như lùi khỏi cái miệng há ngoác của một con quái vật. Anh đóng cửa nhà lại trước khi chạy về phòng, sập cửa, cài hai lần khóa rồi chui lại lên giường, tự bọc mình trong lớp chăn bông dày trong nỗ lực làm ấm bản thân lên dù chỉ một chút. Lạnh quá. Lạnh kinh khủng. Chưa bao giờ anh thấy lạnh như vậy, như thể toàn bộ máu trong người anh đều đã hóa thành băng tuyết. Miệng Benjamin vẫn mở to, nhưng những thứ anh hít vào được hai buồng phổi chỉ có trống rỗng.
Đau đớn, ngạt thở.
Giờ nghĩ lại, Benjamin không thể chắc chắn rằng đó là mơ hay thực. Nếu là mơ, tại sao nỗi sợ hãi và gió mưa lạnh buốt lại thật đến thế, nếu là thật, tại sao lại không có bất kỳ điều gì chứng minh anh đã rời khỏi giường vào tối qua? Áo anh khô cong, đôi tất sạch sẽ, cửa vẫn cài then cẩn thận, như thể nói với Benjamin rằng tất cả chỉ là một ảo giác hoang đường nữa của anh. Không có cánh cửa mở toang, không có cơn giông vần vũ, không có gì cả, chỉ có cơn ác mộng bên trong tâm trí anh là thứ duy nhất có thật. Và những gì chỉ có trong đầu anh thì sẽ không hiện diện ở thực tại.
Vì lại lên cơn hoảng loạn không đúng lúc, mười phút sau Benjamin mới rời khỏi giường được. Đến tận lúc gấp chăn tay anh vẫn còn hơi run rẩy, nhưng anh nghĩ là mình có thể che giấu chúng được. Anh vẫn luôn là một đứa trẻ ngoan. Anh sẽ luôn là một đứa trẻ ngoan. thanh niên tóc đen tự nhủ như vậy khi nhìn vào màn hình điện thoại tối đen và tập cười cho bớt gượng gạo lần cuối trước khi mở cửa ra ngoài. Abel đã dậy trước, đang tu một cốc cà phê rất to như tu nước lã như mọi khi. Không hiểu sao, hình ảnh ấy lại khiến anh vô thức an lòng. Nhẹ nhõm, dùng từ chính xác là vậy, như thể chỉ cần trông thấy hắn là mọi việc đều sẽ ổn.
Trời vẫn mưa to, ăn trưa xong thì họ lại thân ai lo việc nấy. Chiếc khăn len được Benjamin đan xong vào lúc sắp ăn trưa. Anh hớn hở nâng nó lên ngắm nghía như bà mẹ tự hào về đứa con trai hết mức giỏi giang, kiểm tra lại lần cuối để chắc chắn là không còn chỗ nào bị lỗi nữa trước khi cắp nó vào phòng. Có một chiếc hộp rất đẹp mà anh vẫn còn giữ từ khá lâu, được anh dùng làm hộp đựng sách, giờ Benjamin bỏ sách ra xếp lên bàn rồi bỏ chiếc khăn vào. Thêm một lớp giấy gói nữa, xong. Benjamin lại ôm hộp ra ngoài phòng khách.
“Abel ơi.”
Hắn ghé mắt nhìn lên.
Anh hớn hở chìa hộp quà ra. “Có quà cho anh này.”
Abel nhìn từ cái hộp tới thanh niên tóc đen, trông từ vẻ mặt hắn là anh biết Abel hẳn đang nghi ngờ anh bỏ bom vào hộp. Nụ cười của Benjamin không hề nhạt đi trước cái nhìn chòng chọc của người nọ, đường nét khuôn mặt của anh vốn hiền hòa, quai hàm hơi vuông, khóe mắt rũ xuống dịu dàng, rất khó để người ta có thể mang lòng cảnh giác được, nên cuối cùng hắn vẫn nhận lấy cái hộp từ tay anh. Abel mở ra tại chỗ luôn (có gì chết cả hai thằng cùng chết), và nhìn cách lông mày hắn nhướn lên là anh biết hắn cũng thoáng ngạc nhiên khi thấy chiếc khăn màu vàng nhạt, thứ mà anh vùi đầu vào cả tuần nay.
“Ban đầu tôi định giặt rồi phơi nắng một buổi cho thơm, nhưng mấy nay trời mưa quá.” Anh gãi đầu. “Anh đeo thử xem có dài ngắn gì không tôi sửa luôn cho.”
Cái nhìn nghi ngờ trên mặt hắn không biến mất đi. “Sao tự dưng tặng tôi?”
“Tôi hứa rồi còn gì.” Anh nghĩ nghĩ lấy cớ. “Coi như tôi cảm ơn anh đi.”
“Cậu mỉa tôi đấy à?”
Đấy, Abel cũng biết là mình đối xử không tốt với anh chứ đâu phải không. Anh cong mắt cười, bộ dáng vô cùng hiền lành thật thà. “Đâu có đâu, tôi thật lòng mà.”
“Để tôi quàng cho.”
Hắn không ngăn cản khi anh lấy chiếc khăn len ra từ hộp rồi choàng lên cổ hắn. Len mềm, mịn, thoang thoảng mùi nắng mới, cọ khẽ lên da hắn khi anh vòng hai vòng rồi buộc nút lại. Người hắn to nên anh đan dài một chút, đúng là không thừa. Trông Abel quàng khăn trông dễ thương hẳn, phần cằm bị che mất nên bớt hẳn vẻ lạnh lùng khắc nghiệt thường ngày, trẻ con nhìn thấy chắc cũng không khóc toáng lên nữa.
“Hợp lắm. Sắp vào đông rồi anh mặc ấm một tý khỏi ốm.”
Abel đảo mắt, nhưng cũng gật đầu khi tháo khăn xuống. Khi anh đi nấu cơm thì cái hộp vẫn còn ở trên bàn, nhưng lúc Benjamin bưng bát đũa quay lại thì nó đã biến mất rồi. Thế là anh được nước làm tới, kỳ kèo đến lúc mà hắn phải đồng ý là khi nào trời trở lạnh sẽ quàng khăn mới không làm phiền Abel nữa. Đến lúc đó anh sẽ lấy cái khăn của mình ra từ trong vali quàng đôi với hắn luôn, nghĩ thôi đã thấy vui, lúc rửa bát còn không kìm được ngâm nga mấy câu, khiến người đàn ông tóc đỏ nhìn anh như nhìn một kẻ lên cơn hâm hấp.
Buổi chiều chán quá không có gì làm nên Benjamin xuống chỗ Hag phụ làm giấy tờ. Lúc ra ngoài trời vẫn còn mưa, Abel bèn ném cho anh một cái ô. Lại là ô. Thấy hắn chuộng dùng ô hơn hẳn áo mưa luôn ấy, dù thói quen của kiểm lâm thường là ngược lại. Nhưng đi ô thì cũng ít bị ướt hơn, cũng chẳng cần đi qua rừng không sợ vướng, nên cuối cùng anh vẫn nhận lấy, bung dù cuốc bộ trên con đường nhỏ dẫn xuống ban quản lý. Hôm nay chủ nhật, hai nhân viên còn lại đã nghỉ hết, chỉ còn lại Hag trực nên ổng cũng rất vui khi nhìn thấy anh. Hồ sơ của Afata ít hơn nơi khác nhiều, nhưng ít người làm quá, lại chẳng có ai thực sự đến kiểm tra kỹ bao giờ, nên chúng cứ dồn ứ lên năm này qua tháng nọ. Benjamin cảm thấy thế thì không được, nên đốc thúc các nhân viên quản lý đi xử lý giấy tờ cùng mình, dù sao anh cũng có kinh nghiệm. Khỏi phải nói Hag nhìn anh như nhìn cục vàng luôn, chưa bao giờ thấy con người nào tận tâm đến thế.
“Những người kiểm lâm khác có nói với ông là thấy Abel có gì đó hơi kỳ lạ không?”
Trong lúc phân loại hồ sơ cũ vào thành từng chồng và hộp riêng, Benjamin lựa lời hỏi. Anh nghĩ là người quản lý đã đủ thoải mái với mình để nói những chuyện như thế này.
“Cũng có.” Ông gật đầu sau một thoáng suy nghĩ. “Họ nói anh ta hơi đáng sợ, cũng không thể trách họ.”
“Lúc những người đó xin nghỉ việc, trạng thái tâm lý của họ thế nào?”
“Tệ lắm. Có người còn quăng đơn lên bàn tôi rồi chạy thẳng luôn, không cả thèm đòi trợ cấp thôi việc.”
“Vì sợ hãi?”
“Ừ, vì sợ hãi. Mặt ai nấy đều trắng như tro cả. Chúng tôi đã đau đầu một thời gian dài vì thiếu nhân lực, cũng chẳng có ai dám đến nộp đơn, cuối cùng lại là Abel gánh hết.”
Benjamin nhìn tờ báo cáo trên tay mình. Có báo cáo săn bắn trái phép, chặt gỗ trái phép, vân vân mây mây thường thấy các vấn đề kiểm lâm gặp phải. “Có lần nào có báo cáo về việc thấy xác động vật chết không?”
“Xác động vật chết thì bình thường mà? Hình như không, khi nào chết hàng loạt mới cần, nhưng đó là chuyện lâu lắm rồi.”
Hag lục lọi một lúc rồi đưa anh một bìa hồ sơ. Anh mở ra, là một báo cáo từ sáu năm trước, ghi lại việc nhân viên kiểm lâm liên tiếp phát hiện xác hươu chết vào một tháng nhiều mưa. Người làm báo cáo không phải Abel, là một người khác đã nghỉ việc sau đó không lâu. Sau khi xác nhận không phải do con người làm cũng không phải do bệnh, vụ việc này nhanh chóng khép lại.
“Cuối cùng mấy cái xác hươu ra sao vậy?”
“Abel bảo họ sẽ xử lý, chắc là chôn thôi.”
Tức là Hag cũng không biết cụ thể cái xác hươu đó cuối cùng đã đi đâu. Benjamin nghĩ về bộ xương hươu vẫn còn ở bên dưới khoảnh đất cạnh nhà kho, quyết định im lặng.
Hai người vùi mình trong phòng tài liệu làm việc quên cả thời gian, lúc sờ lại điện thoại mới giật mình thấy đã là sáu rưỡi tối. Giờ này muộn giờ nấu cơm rồi, thế mà hắn cũng chẳng gọi anh. Benjamin vội vàng chào tạm biệt viên quản lý rồi trở về nhà. Trời đã tạnh mưa, nhưng lạnh thì vẫn rất lạnh. Đèn đường đúng giờ sẽ bật nên cũng không đến mức tối tăm lắm, nhưng gần về đến nơi rồi anh mới phát hiện ra ngôi nhà nhỏ bên bìa rừng không hề có ánh đèn. Lạ vậy nhỉ, hắn ra ngoài à? Benjamin thoáng chút lo lắng, chân cũng bước nhanh hơn khiến nước trên đường bắn tóe lên gấu quần.
“Abel ơi? Anh có ở nhà không?”
Phòng khách vắng tanh, lửa trong lò cũng đã tắt. Mắt không quen với bóng tối nên chẳng nhìn được cái gì với cái gì, đường viền của đồ vật giờ méo mó đi như những bóng ma quái gở, anh mò mẫm một hồi mới thấy công tắc, nhưng bật thử hai lần thì vẫn không lên, chỉ có tiếng xèn xẹt nghe ê răng và tia lửa khẽ nháng lên ở chóp đèn. Chắc là chập điện rồi. Máy phát điện của bọn họ đặt ở gần chỗ chứa củi, ra khởi động lại thử xem thế nào.
Ngay khi Benjamin tiến thêm một bước nữa, một cánh tay quàng qua cổ anh, siết chặt.
Benjamin ngửi được mùi thuốc lá pha lẫn với mùi ngòn ngọt chua chua của trái cây quá chín và ngay lập tức nhận ra đó là Abel. Tay hắn run rẩy như thể người nọ đang mất bình tĩnh, thậm chí không nhận ra là anh đã phản ứng kịp và luồn được một tay vào chặn lại thế kẹp của hắn. Tay anh chặn giữa tay Abel và cổ anh, khiến Benjamin không bị ngạt thở, trong lúc anh vùng vẫy, cố gắng đẩy tay người kia ra, giọng nói khàn khàn của người đàn ông tóc đỏ vang lên trong bóng tối.
“Lần này lại là ai nữa? Benjamin? Hag?”
Anh khựng lại khi nghe đến tên mình. Hình như hắn nhầm anh với ai đó khác. Vòng tay hắn càng siết càng chặt, vẻ thù hằn và ác ý cực kỳ mãnh liệt, Benjamin cố lắm mới không bị ngạt thở. Anh cảm nhận được thái dương mình giần giật dữ dội, mạch máu nảy lên dưới da cùng với adrenaline. Nếu không kịp luồn tay vào, anh đã ngất chỉ sau vài giây rồi, nhưng tình trạng bây giờ cũng không khá hơn.
“Không, không thể là Hag, anh ta ở bên ngoài khu rừng. Phải là Benjamin.”
Một tiếng thở nghèn nghẹt thoát ra khỏi cổ họng anh, móng tay anh cào lên tay Abel thành những vệt xước dài trong nỗ lực bắt hắn buông anh ra. Anh ngửi thấy được mùi máu. Anh cố gọi tên Abel, nhưng giọng nói tắc tị ở cổ họng anh cùng với không khí. Benjamin không thở được. Tầm mắt anh mờ dần, thậm chí còn có ảo giác mặt anh sưng lên như một cái bong bóng to.
Rồi một tiếng thở dốc kinh hãi vang lên bên tai thanh niên tóc đen, và người nọ buông anh ra.
Benjamin ho khù khụ ngay khi thoát khỏi đòn siết chết chóc, vô thức đưa tay lên xoa cổ. Cổ họng anh đau như vừa bị gãy, nói cũng nói nổi nên lời. Đúng lúc đó, đèn phòng khách sáng trở lại, và đứng trước mặt anh là một Abel cũng sốc y hệt như anh, gương mặt hắn nhợt nhạt dưới ánh điện công nghiệp, đôi đồng tử vàng kim mở to, nhưng không thật sự nhìn vào anh.
“Có chuyện…gì vậy?” Benjamin hỏi. Giọng nói cào qua cổ anh như những mảnh thủy tinh vỡ.
Hắn im lặng.
“Anh nhầm tôi với ai đó…Đúng không? Anh biết…”
“Xin lỗi.”
Abel chỉ nói có thế. Hắn lảng tránh ánh mắt anh rồi quay lưng đi, hất tay Benjamin ra khi anh đuổi theo giữ hắn lại. Chưa bao giờ anh trông thấy hắn có cái vẻ dễ tổn thương như thế, giống như một con búp bê vỡ nát. Có lẽ lúc nào hắn cũng là con búp bê vỡ cả, chỉ là vẻ ngoài khắc nghiệt của người nọ đã che giấu nó quá lâu. Abel thậm chí không quay đầu lại khi đẩy anh ra, chỉ sập thẳng cửa vào mặt thanh niên tóc đen đầy lạnh lùng, không giải thích, không giãi bày. Anh điên tiết đập cửa đến đau cả tay, tiếng thình thình của da thịt đập vào bề mặt gỗ cứng vang lên suốt một lúc lâu, nhưng người bên kia cánh cửa vẫn không đáp lại.
“Abel, ra đây đi.”
Giọng anh không lớn hơn một tiếng thì thầm, nhưng chỉ thế thôi cũng đủ khiến cổ họng anh đau rát. Benjamin chán nản ngồi bệt xuống, lưng dựa vào cửa. Móng tay anh vẫn còn lờ mờ vệt đỏ từ vết xước mà anh cào ra trên tay hắn, lúc sờ lên gáy, anh cũng sờ được vết máu khô dính bết vào chân tóc. Hình như lúc hắn buông anh ra, anh đã trông thấy vết thương trên lòng bàn tay hắn lại rách miệng.
Hắn biết điều gì đó. Chắc chắn là thế. Có lẽ hắn đã lầm anh thành cái thứ xuất hiện ở vườn nhà bọn họ, chưa bao giờ ác ý trong giọng nói của Abel lại lớn đến như vậy, sự lạnh lẽo ẩn trong đó khiến anh phát rùng mình, đột nhiên nhận ra thái độ trước đây của người nọ là dịu dàng lắm rồi. Lần này lại là ai nữa đây, “lại”, chứng tỏ không phải chỉ một lần. Anh nhớ lại những người kiểm lâm liên tiếp nghỉ việc và thậm chí có cả người còn mất mạng, chẳng lẽ thứ đó nhắm đến những người đồng nghiệp của hắn? Hắn biết đúng không? Vậy tại sao lại không nói? Đó là lý do hắn cứ xúi anh nghỉ việc à?
Benjamin không thể nào giận hắn được, vì lúc hơi thở lạnh ngắn của hắn sượt qua má anh, giọng nói của Abel nghe vô cùng đau khổ.
..
Đến tận lúc đêm khuya khi cuối cùng Benjamin cũng phải chịu thua đi ngủ trước, Abel vẫn không xuất hiện.
“Tôi để bữa tối trên bàn nhé.” Anh gõ cửa phòng hắn, khẽ gọi. “Anh ăn một chút đi không lại đói.”
Không có tiếng đáp lại.
“Tôi đun cả nước rồi đấy.”
Vẫn không có phản ứng gì. Benjamin thở dài, tắt đèn phòng rồi cũng về phòng ngủ của mình. Anh cứ nghĩ ngợi mãi về chuyện vừa xảy ra, vẻ tái nhợt trên mặt hắn, thái độ giấu diếm, lẫn thân phận của kẻ mà anh đã bị nhầm thành. Nếu chỉ là một con người thì Abel không thể trông sợ hãi đến vậy. Nhưng nếu không phải người thì sao?
Abel, ở trong rừng Afata có ma không?
Nếu cậu tin là có thì là có, nếu cậu tin là không thì là không.
Hắn không thừa nhận, nhưng cũng chẳng lắc đầu.
Anh nghĩ là mình kiểu gì cũng sẽ trằn trọc một lúc lâu, nhưng rồi dòng suy nghĩ của Benjamin đứt đoạn dần và cơn buồn ngủ đến trĩu mi kéo anh đi. Trong cơn mơ chập chờn như ảo giác, anh khẽ mở mắt ra, trông thấy cánh cửa phòng mình mở toang, và một cái bóng đen khổng lồ đứng ở đầu giường mình. Cái bóng nọ cúi xuống, đặt lên trán anh một nụ hôn lạnh lẽo thoảng mùi máu tanh. Trời vẫn đang mưa. Cửa sổ cũng mở, tấm rèm trắng tung bay trong gió lạnh như một bóng ma. Từ họng anh bật ra một tiếng nấc nghèn nghẹt, nghe như tiếng trẻ con khóc, rồi Benjamin co người lại vào chăn, nhắm mắt lại thiếp đi.
Sáng thứ Hai có gió nhẹ, tốc độ gió là 12 kn, không mây, nhiệt độ giảm, nguy cơ cháy rừng thấp.
Và Benjamin vẫn tỉnh dậy vào lúc bình minh.
Mưa đã tạnh hẳn. Cửa sổ không mở, sàn chẳng có nước, then vẫn được cài cẩn thận, cho thấy đêm qua chỉ lại là một giấc mơ khác của anh, Benjamin cũng không lấy làm ngạc nhiên. Cổ họng anh chỉ còn hơi nhưng nhức, trừ phi hét lên, còn lại nói chuyện bình thường thì không có vấn đề gì.
Abel không có ở trong phòng khách khi anh mở cửa đi ra. Lò sưởi chưa được nhóm, nên căn nhà cũng lạnh lẽo hẳn đi. Đồ anh để phần cho hắn tối qua đã biến mất khỏi bàn bếp, nhưng anh chưa kịp vui mừng thì lúc mở tủ lạnh ra đã thấy chúng nằm ở đó, còn nguyên vẹn chưa từng được đụng vào. Nhà vệ sinh cũng khô cong, chiếc bàn chải không hề đọng nước.
“Abel ơi? Ra đây đi.”
Anh gõ cửa, nửa gọi nửa dỗ, nhưng vẫn chẳng có ai đáp lại. Abel nhất quyết giả chết, không chịu thò mặt ra. Thú thật là anh hơi lo cho trạng thái tâm lý của hắn, trông hắn lúc tối qua như kiểu sắp sụp đổ vậy.
Nhưng nếu anh là hắn thì anh cũng sẽ không kể…Benjamin đau khổ nhận ra mình không đứng ở vị trí có thể phán xét hành động của hắn, bản thân anh cũng đã từng phản ứng y hệt như thế với hai bác và ông bà, thà trốn vào một góc tự liếm láp vết thương của mình chứ nhất quyết không thò mặt ra nói với ai. Có lẽ hắn cần thêm thời gian để bình tĩnh lại., anh nghĩ vậy nên cũng không ép nữa.
“Tôi để đồ ăn sáng ở trên bếp nhé, anh không ăn là nó nguội đấy.”
Benjamin báo lại với hắn như thế rồi về phòng thay đồ để chuẩn bị đi làm. Vừa mới mưa xong nên anh dùng ủng, không dùng giày cho khỏi ướt.
Trời vẫn rất lạnh, gió thổi tung tóc anh rơi lòa xòa xuống trán. Khu rừng lại trở về cái vẻ tối tăm, gầm ghè, ác độc như ngày đầu tiên anh vào Afata. Đôi khi anh cũng nghĩ những khu rừng đều có linh hồn của riêng nó như con người và loài vật, và nếu điều đó không phải chỉ là một niềm tin tâm linh, hẳn linh hồn của Afata sẽ là linh hồn ác ý và hằn học nhất trên đời. Hag nói nơi này chẳng giỏi gì và cũng chẳng mong muốn gì hơn là bòn rút hết thảy niềm vui dù là nhỏ bé nhất từ những người đủ xui xẻo để nó tóm được, một nhận xét rất xác đáng mà anh không thể nào phản bác.
Benjamin cứ miên man nghĩ mãi về chuyện xảy ra ngày hôm qua. Hai lần anh thấy cảm xúc của hắn dao động lớn nhất đều là những lần mà Abel trông thấy - hoặc tưởng mình trông thấy, một sinh vật nào đó mà hắn vô cùng căm ghét. Nhưng thứ đó là gì? Theo như Benjamin biết, chắc chắn không còn nhân viên nào khác ngoài anh, kể cả người gác rừng đã chết nọ. Hắn đang sợ hãi điều gì? Có thứ gì đó sống bên trong khu rừng sao? Những vụ tự sát tại rừng Afata chỉ biến mất dần từ sau khi Abel đến - liệu có phải điều đó xảy ra là bởi vì người đàn ông tóc đỏ nọ là kẻ duy nhất biết nguyên nhân thực sự đằng sau những vụ tự sát không? Nếu vậy tại sao hắn không nói ra mà cứ gánh vác một mình?
Nếu do hắn không thể không gánh vác một mình thì sao?
Nhưng nhân loại không bao giờ thực sự tin vào ma quỷ.
Một cơn rùng mình chạy dọc sống lưng Benjamin. Lúc nói câu đó, hắn không có biểu cảm gì đặc biệt, nên anh đã nghĩ đó chỉ là một lời mỉa mai.
Chân tay anh lạnh ngắt. Không thể nào, nếu trên đời này thật sự tồn tại quỷ dữ, vậy toàn bộ hệ thống hình sự của nhân loại không phải sẽ bỏ đi hay sao? Còn cần cảnh sát làm gì nữa nếu ta có thể cứ thế mà đổ tội cho thế lực siêu nhiên?
“Cũng chưa chắc đâu.”
Benjamin quay lại, chỉ có bóng tối thuần chất giữa những thân vân sam và bulô bạc trắng đáp lời anh.
Anh nhớ lại lời của một người bạn. Phải, chính là cái người bạn được cha dẫn đi săn vịt bên bờ hồ mỗi mùa săn đến ấy, cậu ta kể rằng có một lần, cậu bắn rơi được một con vịt rất to, không trúng bụng mà trúng cánh, nên nó vẫn gắng gượng bay thêm được một quãng nữa rồi mới rớt xuống đất. Người bạn đó kể rằng cậu ta chạy đuổi theo con vịt loạng choạng như diều đứt dây ấy, cả bố lẫn cậu ta đều chính mắt trông thấy nó rơi vào một bụi cây dại mọc thấp, thậm chí còn nghe được cả tiếng vỗ cánh và tiếng quàng quạc giãy chết.
Nhưng khi hai người đi đến giở bụi cây ra, chẳng có con vịt nào ở đó cả, chỉ có vệt máu trên đất và một sợi lông vũ ánh xanh.
“Tôi với bố đi tìm xung quanh rất lâu, kể cả nó có lết đi thì cũng không xa thế được, nhưng không có gì cả.” Cậu ta nhún vai. “Chỉ có mỗi vệt máu ấy thôi, như thể con vịt đã bốc hơi vậy.”
Người bạn nói tiếp.
“Đến giờ tôi vẫn không biết tại sao lại như thế. Nhưng đời vốn đâu thiếu chuyện kỳ lạ.”
Nếu đây cũng chỉ là câu chuyện về một con vịt biến mất trong bụi cây nữa thì sao? Nếu cả khu rừng Afata chỉ đơn giản là một câu chuyện ma quái khổng lồ và dài đằng đẵng cả kiếp người?
Ý nghĩ đó khiến Benjamin run rẩy. Bởi vì ngay cả bản thân anh cũng nghi ngờ việc Abel là người.
Tí tách
Tối hôm trước vừa mưa to, dù nay đã tạnh thì nước vẫn không ngừng rơi xuống từ tán cây mỗi lần gió thổi qua, nên khi một vài giọt nước rơi xuống má, Benjamin không mấy để tâm. Nước mưa lạnh ngắt chảy xuôi theo gò má thanh niên tóc đen, thấm vào khóe môi.
Người Benjamin cứng đờ khi anh nếm được vị máu.
Anh giật mình sờ lên má, máu loãng vẫn chảy xuôi xuống theo đường viền trên gương mặt, đưa tay lên xem chỉ thấy một màu đỏ rực rỡ nhức mắt, như một bông hoa nở xòe. Sáng nay trời không có nắng, nên đến tận giờ anh mới nhận ra là trên đầu mình có một bóng đen. Thứ đó rất to, hơi thuôn dài, và đầu có sừng.
Benjamin ngẩng đầu lên, giọt máu từ vết thương toang hoác của con vật suýt nữa thì rơi trúng mắt thanh niên tóc đen khi anh trông thấy xác con hươu bị rạch bụng thứ hai.
Honeybee