Một mình với người kia (2)



Sáng thứ Tư có gió nhẹ, tốc độ gió là 7kn, có mây, có sương mù, tầm nhìn hạn chế, nguy cơ cháy rừng thấp.

“Tôi biết là hỏi hơi kỳ nhưng mà…tối qua anh có vào phòng tôi không?”

Abel không hề giật mình khi nghe câu hỏi không đầu không đuôi của anh, bình tĩnh nhai cho hết miếng trứng chiên trong miệng rồi mới ngẩng lên nhìn Benjamin, vẻ khinh bỉ lồ lộ trên mặt như khi ta nói với một đứa trẻ con. “Biết kỳ rồi vẫn còn hỏi?”

“Tôi ngủ không sâu lắm, qua hình như tôi nghe được tiếng cửa mở nên tưởng anh.” Anh gãi đầu. “Tôi còn mơ thấy anh hôn trán tôi nữa. Hơi kỳ nhỉ?” Nói thì nói vậy, Benjamin cũng không nhắc đến việc sáng nay lúc rửa mặt, anh đã thực sự trông thấy một vết đỏ nhàn nhạt, chắc chắn không có ở đó vào đêm qua, trên trán mình. Gáy anh cũng đau nhức như bị con gì đốt, dù anh đã cẩn thận bôi dầu gió trước khi đi ngủ và thay lại ga giường mới. Trong giấc mơ mờ ảo như ảo giác, Benjamin đã tưởng mình trông thấy Abel đứng ở đầu giường mình trong màn đêm thăm thẳm của buổi tối khuya, bóng hình nhờ nhờ của hắn trông còn đen hơn cả chính bóng tối, bàn tay chai sạn vén tóc mái lòa xòa của anh lên trước khi cúi người áp đôi môi lạnh như băng của mình lên trán của thanh niên tóc đen. Anh thậm chí còn nhớ được cả hơi thở lạnh lẽo, thoang thoảng mùi ngòn ngọt chua chua như mùi một quả táo đã quá chín phả lên da mình, tựa cái hôn của mùa đông đến sớm. Nụ hôn của hắn vẫn dịu dàng, không hơn gì một cái chạm khẽ, một lời an ủi thoáng qua, hệt như trong quá khứ xa xôi, vào những ngày mà anh đã không còn nhớ nổi.

“Cậu thực sự làm tôi phát rùng mình đấy. Tập trung ăn đi.” Abel càu nhàu.

Benjamin mỉm cười cam chịu thái độ không mấy thiện chí của hắn, cũng không nói gì nữa. Nhưng anh vẫn thật sự tin là âm thanh kẽo kẹt trong giấc mơ đêm qua của mình không phải chỉ là ảo giác.

Anh không đi lang thang trong Afata vào buổi tuần tra ngày hôm đó nữa. Trời hơi có sương, lành lạnh, khi đi ở trong rừng gần như không cảm nhận được gió. Benjamin nhìn lên khoảng trời bị những tán cây san sát cắt xẻ thành vô vàn mảnh nhỏ, tự dưng cảm thấy nơi này hơi giống một cái lồng. Một cái lồng không có khóa, nhưng những kẻ đã lỡ sa chân vào thì cứ đi vòng vòng mãi, không tài nào tìm được đường thoát ra. Hag lẫn Abel đã thế, Benjamin cũng không bao giờ thoát khỏi được hơi thở lạnh giá của Afata, dù anh có đi đến đâu, hay đã bao nhiêu tuổi, nó như một căn bệnh nan y, một thứ ký sinh trùng cứng đầu, âm thầm bám chặt lấy xương sống anh vào khoảnh khắc trông thấy Benjamin, chỉ chực chờ một ngày nuốt gọn thanh niên tóc đen.

Tại sao Hag cứ bảo vệ người kiểm lâm trưởng nọ như vậy? Thái độ tin tưởng, dựa dẫm gần như mù quáng của ông ta đối với hắn rất đáng nghi, và anh tin là không chỉ mình anh thấy kỳ lạ. Dù ông ta có bảo rằng hắn đã cứu mạng ông, nhưng ân tình là một chuyện, thái độ dung túng kệ cho hắn làm gì thì làm như thế vẫn rất khác thường. Với tần suất chết chóc dày như vậy, dù cảnh sát đã điều tra, nhưng có thật sự là không có ai từng nghi ngờ những vụ tự sát đó không phải chỉ đơn thuần là tự sát không? Anh không tự mãn đến mức cho rằng mình có thể làm một điều gì đó mà cảnh sát đã không thể, anh chỉ cảm thấy thật kỳ lạ, rằng rõ ràng bên dưới vụ án mạng của cô gái nọ là dây mơ rễ má chằng chịt của rất nhiều những thứ khác, nhưng tất cả mọi người lại cứ giả vờ không biết.

Không có ai đăng ký vào rừng buổi chiều hôm ấy, trời hơi nhiều sương nên anh cũng muốn về sớm. Abel vẫn gọi Benjamin qua bộ đàm để chắc chắn rằng mọi chuyện vẫn ổn, cứ nghĩ tới việc đường dây này chỉ có anh và hắn, thật ra cũng hơi kỳ quặc. Nó là một loại cảm xúc pha trộn giữa lo lắng vì không thể gọi cho ai khác và đồng thời an tâm khó hiểu vì chỉ cần áp bộ đàm vào tai là biết đầu dây bên kia chắc chắn là hắn, tràn đầy phi lý và mâu thuẫn, mà chính bản thân Benjamin cũng không thể định nghĩa hay giải thích được.

Anh trở về nhà trước lúc hoàng hôn. Abel không ở trong phòng khách, nhưng anh nghe được tiếng kim loại rin rít ghê tai bên hông nhà khi vào phòng thay quần áo. Anh tò mò ngó ra, trông thấy người đàn ông nọ đang ngồi trong sân phơi, cái máy mài cỡ lớn đặt trước mặt, một thanh đao khổng lồ - còn to hơn cả thanh đại kiếm trưng bày trong bảo tàng quốc gia, với lưỡi kim loại sáng bóng óng ánh sắc bạc trong ánh sáng nhập nhoạng của buổi chiều tàn đặt trên đùi, mài lưỡi kiếm bén ngót vào bánh răng mài xoay tít.

Nhìn qua thôi cũng biết thanh đao đó là đồ thật trăm phần trăm, anh dám cá nguyên một tháng lương là chỉ nội nhấc kiếm lên thôi anh đã mệt bở hơi tai, chứ đừng nói là vung vẩy lung tung. Bọn trẻ con, nhất là mấy thằng con trai chắc sẽ thích lắm, Abel thêm cây đại kiếm đúng là như bước ra từ một tựa game đối kháng hành động ăn khách.

“Tôi không nghĩ cái đao đó cần thiết cho công việc gác rừng lắm?”

Giọng nói của anh không lớn, nhưng Benjamin trông thấy Abel ngừng tay. Hắn ngẩng lên, nhướn mày với anh. “Cậu có thấy cái xác nào bị chém vào lưng nhớ báo tôi nhé?”

Tôi đâu có ý nói móc như thế đâu, Benjamin nghĩ, nhưng anh không nói ra. Dù sao hai tháng qua ai cũng nói hắn là kẻ giết người, nên Abel dễ xù lông lên như thế là điều hoàn toàn có thể hiểu được. Anh tiến lại gần hắn, ngồi xổm xuống nhìn trong khi người đàn ông tóc đỏ tiếp tục công việc của mình. Tiếng kim loại nghiến vào nhau đinh tai nhức óc không thể chịu đựng nổi, nhưng anh vẫn ngồi im. Thanh kiếm rất đẹp, thực ra hơi thiên về đao hơn, với bản kiếm rộng và sắc về một bên, tay cầm được bọc da, cũng không có chút hoa văn màu mè nào, thực dụng và đơn giản như tính cách của Abel.

“Giờ này anh mới lôi đồ nghề ra không sợ tôi về thấy thì phát hoảng lên à?” Benjamin thắc mắc. “Lỡ tôi là tên phóng viên nào là mai anh lên trang nhất tờ báo sáng luôn.” Anh còn nghĩ được mười bảy kiểu tiêu đề giật tít khả dĩ về việc một kiểm lâm bị tình nghi giết người lại đi tàng trữ một cây đao trông rất đáng nghi trong nhà, như thể nội khẩu Glock chưa đủ tệ vậy. Từ từ tên sát nhân màn ảnh rộng nào dùng đao to ấy nhỉ, như kiểu thay vì có Texas’ Chainsaw thì ta sẽ có Lokheim’s Blade vậy, dám là mấy tay nhà báo thật sự có gan viết kiểu đó lắm.

Hắn tra thanh đao vào vỏ da (cũng đã cũ sờn lắm rồi), liếc mắt nhìn lại. “Cậu đã từng bảo trông tôi không giống một kẻ sát nhân.”

“Và anh đã nói là Ted Bundy cũng vậy.”

Hắn im lặng trước câu đốp chát của Benjamin. Mãi đến lúc anh phụ Abel bê cái máy mài vào trong nhà kho và khóa cửa lại, anh mới tiếp tục cuộc hội thoại dang dở trong tiếng chìa khóa xoay lạch cạch.

“Có thể anh không phải kẻ giết người, nhưng chắc chắn anh đang giấu giếm điều gì đó.”

Hắn không trả lời.

Trời có vẻ bắt đầu trở lạnh từ chiều hôm đó, Benjamin lúc bước ra khỏi bồn tắm tưởng đâu mình đã bị đông cứng vì lạnh. Đến kiểu lạnh của Lokheim cũng là kiểu lạnh khó chịu nhất có thể, lạnh kiểu cắt da cắt thịt buốt vào tận xương, chỉ cần rời đống lửa cháy lách tách trong lò một chút thôi là máu trong người cứng cả lại thành băng tuyết. Trời lạnh như vậy nên cũng không có gì bất ngờ là Benjamin lôi chăn của chính mình ra từ giường, rồi xin cái góc chăn của Abel (trong cái lườm cháy mặt của người nọ), để cả hai người ai cũng được đắp hai lớp chăn dày ấm sừng sực. Ở chung rồi mới thấy thân nhiệt của hắn thấp khủng khiếp, mà hắn bảo là do bẩm sinh vốn thế chứ không phải bị bệnh. Anh đã không hề biết da thịt con người có thể lạnh lẽo đến vậy, cho tới khi áp tay mình vào da hắn.

Hai người anh đọc sách của anh, tôi đan khăn của tôi cũng hết cả một buổi tối, không ai trong bọn họ nhắc gì về cuộc hội thoại đáng ngờ lúc ban chiều và tất cả những điều xoay quanh nó. Đến khuya thì Abel đi ngủ trước, chỉ dặn anh dập lửa trong lò trước khi tắt đèn, cũng tha luôn một cái chăn về phòng. Đến lúc Benjamin cũng dọn đồ, đang xếp lại mấy cuộn len và đôi kim đan vào lại túi vải mới nhận ra hắn đã để quên quyển sách lại trên tay ghế sofa. Anh nhặt nó lên, tiến lại gần tủ sách để cho nó về với anh chị em của mình. Tủ sách cũng khá đầy, anh mất một lúc mới kiếm được một khe hẹp để để nhét vào.

Rồi Benjamin trông thấy một tiêu đề quen thuộc.

Biên bản họp Hội đồng thị trấn Lokheim 1878 - 1934

Quyển sách bị nhét ngược lại, tức là gáy sách quay vào trong, nên lúc đẩy chồng sách trên giá sang một bên để lấy chỗ bỏ sách mới vào anh mới trông thấy tựa đề. Thực ra quyển sách này cũng không có gì kỳ lạ, nhưng nằm giữa một chồng sách khoa học, triết học và tiểu thuyết hiện đại trông hơi lạc lõng, vì thường những quyển như thế này không xuất hiện ở giá sách cá nhân, mà hay thấy trong thư viện với mục đích lưu trữ, hay những nơi phụ trách hồ sơ hành chính hơn. Bản thân những sự kiện được đề cập trong này cũng đã xảy ra lâu lắm rồi, trước cả khi chính quyền thành phố bắt đầu quan tâm tới việc khai thác rừng Afata, nên tại sao nó ở đây là một điều bí ẩn. Thậm chí lấy được một bản của nó thôi cũng đã khó rồi, thư viện thành phố cũng chỉ có một quyển duy nhất thôi, nên Benjamin phải sao chép lại để để vào chồng tư liệu. Tại sao Abel lại có một bản ở nhà?

Benjamin rút quyển sách ra. Nó có một lớp bụi mỏng, có vẻ đã lâu rồi không được nhớ đến. Là ấn bản thật chứ không phải bản sao chép, anh có thể nhìn thấy lớp giấy ố vàng và con dấu của thư viện thành phố. Anh không thực sự định làm thế, nhưng vẫn lơ đãng lướt nhanh qua quyển sách. Trước sự ngạc nhiên của Benjamin, nó dừng lại hai lần, một lần được gấp mép ở giữa quyển, một lần ở gần cuối vì được kẹp vào một mảnh giấy ghi chú nhỏ. Nội dung của trang sách được đánh dấu đầu tiên là báo cáo về cấp phép mở rộng hầm mỏ của chủ đầu tư và chính quyền thành phố, đồng thời công nhận hầm mỏ trong rừng Afata là một dự án kinh tế trọng điểm của Lokheim, có trích hình ảnh hai người đàn ông bảnh bao, mặc vest và đội mũ phớt đang bắt tay nhau. Trang đánh dấu sau chính là báo cáo về vụ sập hầm năm 1931, số lượng thương vong và mất tích lên tới hơn hai trăm người, và sau đó thì khu mỏ này cũng đã đóng cửa vĩnh viễn vì chủ đầu tư bỏ trốn. Tờ giấy ghi chú nhỏ ghi vài dòng nguệch ngoạc theo lối chữ in, không phải chữ Abel vì hôm trước lúc phụ làm giấy tờ Benjamin đã biết được chữ viết tay của hắn trông như thế nào, chỉ gồm vài dòng ngắn gọn, rằng có tin đồn cho rằng tỷ lệ chết hằng năm của công nhân khu mỏ là 40 - 50 người, nhưng đều được chủ khu mỏ ém đi.

Điều này Benjamin chưa từng nghe nói tới thật. Ngay cả với một khu mỏ lớn và điều kiện làm việc tồi tệ của thế kỷ trước thì tỷ lệ chết vì tai nạn lao động như thế này vẫn là cao một cách bất thường, nó phải được liệt vào danh sách cấm khai thác vì độ nguy hiểm cao mới phải, chứ đừng nói là trở thành dự án trọng điểm. Tức là chủ đầu tư phải rất giàu để dàn xếp, và chắc chắn là có tay trong trong chính quyền. Theo Benjamin tìm hiểu, làn sóng nhập cư hồi 1800s và Lokheim nằm trong danh sách những nơi đầu tiên được quy hoạch để giao đất cho công dân mới khiến nơi đây hầu hết là lao động giá rẻ, liên kết trong khu dân cư không bền chặt, thậm chí có những người không có cả gia đình vì đi làm ăn xa, việc dàn xếp riêng với người nhà công nhân gặp nạn đúng là sẽ dễ dàng hơn rất nhiều. Nếu đãi ngộ đủ hấp dẫn thì dù Lokheim là thị trấn nhỏ thì vẫn sẽ có người sẵn lòng đến, gia đình của người làm trong hầm mỏ theo các báo cáo cũ chiếm phần trăm tương đối lớn trong dân trấn.

Benjamin nhớ lại biểu tượng đánh dấu vị trí hầm mỏ trên bản đồ Abel đã cho anh xem vào ngày đầu tiên làm việc tại Afata. Liệu cái hầm mỏ đó có phải chính là cái hầm mỏ đã sập không? Nhiều khả năng. Nó có liên quan gì tới những vụ tự sát trong rừng không? Theo những gì đã biết, chỉ sau khi hầm đã sập nhiều năm thì Afata mới trở thành rừng tự sát nổi tiếng. Liệu có một kết nối nào giữa hai sự việc này không?

Anh nghĩ là mình có thể ghé đến đó một lần. Hầm đã sập rồi thì thôi, cùng lắm đi về tay không, chứ cứ ngồi đây nghĩ mãi thì cũng chỉ bứt rứt tay chân.

Lúc Benjamin đã an vị trên giường, chăn đắp kín tận cằm, anh mới nhớ ra là người đàn ông mặc vest trắng - chủ của khu mỏ thời đó, trông hơi quen quen, và anh nghĩ mình đã nhìn thấy cái họ của ông ta ở đâu đó trước đây. Nhưng rồi cơn buồn ngủ díp mắt nhanh chóng kéo đến, lôi tuột anh khỏi dòng suy nghĩ miên man.

Trong cơn mơ chập chờn giá buốt, Benjamin chắc chắc là mình đã nghe thấy tiếng cửa mở kẽo kẹt và tiếng của một vật nặng bị kéo lê trên sàn, không biết tại sao, anh lại vô thức nhớ đến thanh đao khổng lồ mà hắn đã mài cho sắc lại ở ngoài sân sau. Tiếng kim loại miết lên sàn gỗ, Benjamin nghĩ thế, tạo ra những vết trầy xước không thể nhìn rõ, đâm vào màng nhĩ người ta như những cây kim bằng băng nhỏ xíu.

Abel đi đâu vào giữa khuya à? Anh thắc mắc. Benjamin đã nhổm được nửa người khỏi đệm, nhưng rồi sự ấm áp của lớp chăn bông và mùi ngòn ngọt thoang thoảng vẫn mơn man trên da thịt hắn kéo tuột anh trở lại giường. Có lẽ đến anh thật sự hợp với Lokheim, suốt hai mươi năm qua chưa bao giờ anh được hưởng cái nỗi niềm xa xỉ là có thể ngủ lại sau khi giật mình thức giấc giữa khuya, cho đến khi tới Afata.

Benjamin nhắm mắt lại.

Sáng thứ Năm có gió nhẹ, tốc độ gió là 6kn, có mây, có sương mù, tầm nhìn hạn chế, nguy cơ cháy rừng thấp.

“Tôi thề trên bữa sáng này là tối qua anh có vào phòng tôi.”

Abel thậm chí không thèm nhìn lên. “Ăn đi. Cậu tưởng ai cũng biến thái như cậu à?”

Anh hơi thất vọng khi không thấy hắn có vẻ gì là chột dạ hay bối rối, hay là hôm qua anh ngủ mơ thật nhỉ? Dù sau việc giấc mơ của anh hỗn loạn và đầy ảo giác cũng không phải một sớm một chiều. Hai người ăn nốt bữa sáng rồi chuẩn bị làm việc, anh cũng lại phải bôi thuốc vì cái nốt sau gáy lại bắt đầu nhưng nhức, không đến nỗi quá đáng lo ngại, nhưng hơi khó chịu, đến giờ anh vẫn không hiểu sao tự dưng lại có cái nhọt ở đó. Lúc xếp đồ vào balo, Benjamin cố tình bỏ thêm một cuộn dây thừng và cây đèn cầm tay công suất lớn. Anh chỉ định xuống ngó một chút thôi, dù sao đi vào sâu quá cũng nguy hiểm vì nguy cơ sập hầm tiềm ẩn.

Thay vì đi về hướng tuyến tuần tra số một, Benjamin rẽ ngoặt về phía ngược lại, thẳng tiến đến nơi có hầm mỏ bỏ hoang. Tấm bản đồ một lần nữa được lôi ra, anh vừa đi vừa cố ghép nó vào địa hình thực tế. Nếu là người khác thì hẳn đã lạc lâu rồi, tuyến tuần tra mà Abel phụ trách không hề kém cạnh tuyến tuần tra số một của anh, gần như chẳng có dấu vết nào thể hiện việc đã có người thường xuyên đi qua đi lại. Anh thoáng nghĩ là liệu hắn có phát hiện anh lại chạy sang phía bên này của khu rừng khi cũng ra khỏi nhà làm việc không, liệu hắn có mắng anh không nhỉ. Có thể bọn họ sẽ chạm mặt nhau trên đường về. Benjamin nghĩ thì nghĩ thế, chân anh vẫn không ngừng tiến bước, cùng lắm thì ăn mắng một trận, hoặc là phạt lương gì đó, hắn có ăn thịt anh đâu mà sợ. thanh niên tóc đen dần phát hiện ra mình càng lúc càng được nước làm tới trước thái độ ghét bỏ nhưng đầy cam chịu của người kia.

Nếu tuyến tuần tra số một của Benjamin có tương đối thưa thớt các vật trang trí bằng gỗ, tuyến số hai nhiều hơn, thì tuyến này phải dùng từ “chi chít” để hình dung. Gần như cành cây nào cũng được treo ít nhất một cái, có cây còn ba bốn cái, giống như cây thông Noel được trang hoàng trước Giáng Sinh, những đồ trang trí dị thường khẽ đung đưa theo làn gió nhẹ chẳng biết là từ đâu ra, hầu hết đã trắng phớ, tàn tã vì gió mưa, không ai rõ là đã được treo từ bao giờ. Chúng tụ lại thành một con đường vô hình, và anh cứ đi theo chúng, nửa tò mò nửa băn khoăn không biết chúng sẽ dẫn mình tới đâu. Liệu mật độ treo những cái chạc ba nọ có ẩn chứa một ý nghĩa nhất định nào đó không? Phải có lý do gì thì nơi này mới phải treo nhiều đến thế chứ. Đúng là ai làm kiểm lâm thì đều có chút gì đó mê tín, nhưng nhìn số lượng mà xem, anh nghĩ phải mất nhiều tháng, thậm chí là nhiều năm làm việc liên tục để làm ra và treo được hết những vật trang trí đó lên cây trên một diện tích rừng rộng lớn như vậy. Thế mà hắn cứ gạt phắt đi mỗi lần anh hỏi rốt cuộc hắn đang sợ hãi điều gì, dù công sức mà hắn bỏ ra để chống lại nó - dù thứ đó chỉ là một ảo giác trong cơn hoang tưởng của hắn, thật sự không tưởng tượng nổi.

Benjamin nghĩ là chúng đang thì thầm với anh, nhưng mỗi khi anh đứng lại để lắng nghe, chỉ có tiếng gió rì rào thổi qua kẽ lá đáp lại.

Những đoạn đường ray bỏ hoang, đứt gãy, đã gần như hòa vào làm một với nền đất tơi xốp của khu rừng cho anh biết anh đang đi đúng hướng. Theo những tài liệu được ghi chép lại, chúng được xây dựng cùng thời gian với khu mỏ để vận chuyển vật liệu vào và ra, và cũng bị bỏ lại cùng với căn hầm bị sập, không bao giờ còn được ai đoái hoài nữa. Cũng không thực sự chắc chắn làm vậy thì sẽ có ích gì, nhưng anh vẫn lấy điện thoại ra chụp lại.

Lạnh quá. Benjamin vô thức xoa tay, nhận ra khuỷu tay bên dưới lớp sơmi đồng phục của mình đã nổi hết da gà da vịt cả lên. Hình như hôm nay lạnh hơn hôm qua, chắc là vì mùa đông đến sớm. Kiểu lạnh này là kiểu lạnh rất khó chịu, như kiểu ta ngâm tay vào nước đá vậy, để cho giá rét ngấm từ từ vào da thịt, xuyên lớp biểu bì, lớp mỡ, cơ và thịt như những cây kim bằng băng nhỏ xíu, buốt vào đến tận xương, cho dù có mặc bao nhiêu lớp áo cũng không thể nào ấm lên được. Benjamin thậm chí có thể nhìn thấy lờ mờ hơi thở của mình thoát ra thành từng cụm khói trắng trong tiết trời giá buốt. Lạ thật, dù mùa đông của Lokheim rất dài, nhưng đâu thể tầm này trong năm đã lạnh thế được.

Hy vọng là Abel sẽ không bị ốm. Hắn đang bị thương, sức đề kháng cũng kém đi nhiều, rủi mà nhiễm lạnh rồi ốm thì cũng không tốt, có lẽ tối nay anh sẽ nấu cái gì đó ấm ấm. Trông hắn không phải dạng người sẽ để tâm đến sức khỏe của mình, thôi thì anh lo hộ vậy. Chỉ hy vọng không bị đánh thôi.

Theo bản đồ, một trong các lối vào của hầm mỏ nằm ở vách núi. Anh men theo đường mòn đi lên, chẳng mấy chốc đã thấy lấp lóe ánh phản quang của dây cảnh báo chăng xung quanh lối vào khu mỏ. Dây được chăng cách đây đã khá lâu, một vài đoạn bị đứt phất phơ trong gió, lóe ánh xanh lục trên dòng chữ “Nguy hiểm cấm vào”. Ngay cả dây cảnh báo cũng được treo những cái chạc ba nhỏ bằng gỗ. Lối vào là một hình chữ nhật tối tăm, được viền bằng những thanh gỗ sẫm màu đã xuống cấp. Có những thanh chống viền xung quanh nó nhiều hơn cần thiết, một nửa trong số đó đã gãy hoặc bị thiếu, cho thấy nỗ lực gia cố của những công nhân hầm mỏ. Benjamin mở ba lô lấy đèn pin, ánh sáng xanh nhạt đục xuyên qua bóng tối bên trong lối đi, anh lờ mờ nhìn được những thanh cột chống bằng gỗ đan vào nhau, còn sâu hơn nữa thì không thấy gì cả. Xung quanh lối vào không có ký hiệu hay biển báo cũ nào, chỉ có thể nhận ra đây là khu mỏ cũ từ những tài liệu bên ngoài.

Dù sao cũng đã đến đây rồi, Benjamin hít một hơi thật sâu trước khi bước vào.

Không khí đầy mùi đất, mùi bụi và mùi ẩm mốc, đó là điều đầu tiên Benjamin nhận ra. Như thể vòm đá bên ngoài lối vào đã hút hết ánh sáng mặt trời, anh mới chỉ đi vào sâu vài bước, không gian xung quanh đã chìm sâu vào bóng tối mịt mù, không nhìn thấy rõ cả năm ngón nếu tắt đèn pin. Con đường sâu hun hút như cổ họng của một con quái vật, hẹp đến nỗi hai người đi song song cũng sẽ chật, hai bên đầy những thanh cột chống bằng gỗ như tấm áo vá chằng vá đụp, mặt đá gồ ghề cào vào tay áo anh khi Benjamin đi qua. Trần cũng không cao lắm, anh cao 1m93, dựa vào khoảng cách tính từ đỉnh đầu anh tới trần của đường hầm thì chỉ cao tầm ba mét. Ánh sáng chỉ chiếu được một khoảng không rất nhỏ phía trước mặt anh, ánh sáng xanh làm những vách đá càng thêm nhợt nhạt, đầy đe dọa. Trong này thậm chí còn lạnh hơn bên ngoài rừng, và chỉ có xu hướng tệ hơn nữa, Benjamin đã phải rùng mình hai lần và xoa tay vào nhau cho đỡ cóng. Không gian hẹp làm mọi âm thanh đều bị phóng đại lên cực độ, anh tưởng như hầm mỏ đã trả lại cho anh tiếng vọng của những tiếng thở khẽ khàng của chính anh, ồm ồm, khàn khàn, như tiếng hô hấp của một sinh vật sống đã quá già. Tự dưng tiếng tim đập như to lên gấp đôi, anh gần như có thể nghe được từng nhịp đập đều đặn của nó dội vào màng nhĩ từ bên trong cơ thể, thái dương anh giần giật, mạch máu dưới da đập từng nhịp khẽ khàng.

Nếu cái mỏ cũ này là một con vật đang ngủ yên, hẳn là anh đang xuôi dần xuống thực quản để trèo vào bao tử của nó.

Con đường không dài lắm, chẳng mấy chốc mà anh đã thấy vòm đá trên đầu mình mở rộng ra thành một khoảng không lớn hơn một chút. Con đường mà từ đó Benjamin đã đi vào dẫn đến một ngã tư, cắt ngang một đoạn đường ray cũ, nó đến từ phía tay trái của anh, rồi rẽ nhánh vào hai đường hầm sâu hun hút ở phía đối diện. Trần sụp xuống còn thấp hơn nữa, và cũng nhiều cột gỗ chống hơn, anh nhìn thấy một chiếc xe cút kít trơ trọi vẫn còn ở lại trên đường ray, trong khi hai người anh em đã mất bánh của nó nằm nghiêng trên nền đất chỗ lối vào của một đường rẽ như hai thần thú canh cửa. Ánh đèn lia một vòng hang, soi rõ những thùng phuy rỉ sét đến mất cả màu sắc ban đầu và những tấm tôn bạc trắng chưa dùng đến được dựa vào vách.

Chỗ anh đứng nằm cao hơn một chút, Benjamin soi đèn xuống ước lượng, thấy hai mô đất cách nhau khoảng đến eo anh. Độ cao này thì anh có thể tự trèo lên được lúc ra về, nên anh không ngần ngại gì nhảy xuống đường ray. Bụi đất bắn tóe lên đôi giày da khi Benjamin tiếp đất cùng với một tiếng thịch, chỉ càng xộc mùi cũ kỹ chết chóc của những nơi hoang vắng mạnh hơn nữa, gần như nghẹt thở.

Có ba hướng để đi lận, Benjamin dành mấy phút để chọn lựa. Rẽ nhánh bên trái có rất nhiều thanh rầm chống đỡ và cả cột chống, khá là đáng ngại, có vẻ là nó có nguy cơ cao sẽ bị sập, nên anh tạm bỏ qua. Hai con đường còn lại con đường nào cũng tối tăm, tù mù, hun hút như nhau, khi anh chiếu đèn vào chỉ nhìn đường một khoảng không rất nhỏ, rồi phía trước chỉ có bóng tối thuần chất. Đó là một cảm giác bất an, khó chịu, khi anh đứng giữa một tàn tích đổ nát của một khu mỏ có thời kỳ thịnh vượng nhộn nhịp, trong bóng tối thăm thẳm và bóng ma của tất cả những gì nó từng là. Có lẽ hồi đó khu mỏ sẽ rực ánh đèn, những công nhân mỏ đi qua đi lại, điều khiển những chiếc xe cút kít chạy trên đường ray, chở đầy đất đá và khoáng chất quý ra và vào khu mỏ. Giờ thì trung tâm, và đồng thời mục đích mà chúng sinh ra - con người, đã rời đi hết, chỉ còn lại một kẻ vãng lai là Benjamin, đến để đào xới những điều không bao giờ còn được nhớ đến.

Như thể anh đang đi ngược thời gian từ lúc bước vào khung hình chữ nhật được viền bằng những thanh gỗ sẫm màu, để bước vào một không gian vặn vẹo, trái ngược với tất cả mọi thứ nó “nên là”. Dù biết rằng trong này chỉ mỗi mình mình, Benjamin vẫn thoáng tưởng rằng sắp có một người thợ mỏ bước ra từ bên kia lối rẽ, với bộ quần áo lao động đã sờn cùng khuôn mặt lấm lem, mỉm cười chào anh và bảo anh không nên ở đây, công trường nguy hiểm lắm.

Anh thở hắt ra, xua ảo giác thoáng qua và cả cảm giác bất an đến dựng cả tóc gáy ra sau lưng, quyết định đi về phía lối ra bên trái, phía đối diện với hai con đường rẽ nhánh. Tiếng bước chân đạp lên cát đá của Benjamin vọng lại trong đường hầm tối tăm, nghe rờn rợn, anh phải cố mới không quay đầu nhìn lại. Vì vừa đi vừa soi đèn sang vách đá hai bên, đầu anh vô tình đụng vào một sợi xích thòng xuống từ thanh rầm gỗ chống, không đau, nhưng làm anh giật nảy mình vì cảm giác lạnh lẽo truyền tới từ trán.

Lạnh thật. Càng vào sâu bên trong càng lạnh, mồ hôi bốc hơi cũng mang theo cả thân nhiệt, chỉ càng làm mọi chuyện tệ hơn. Đầu ngón tay anh đã trắng bệch vì lạnh, nhưng Benjamin vẫn cắn răng đi tiếp. Xíu nữa thôi, giữa đường bỏ về thì uổng quá.

Anh đi được mười lăm phút thì phát hiện ra đường đã sập, những thanh rầm gỗ chống đỡ trần hang rơi xuống kéo theo cả đất đá từng cục to bằng nửa người anh, không cách nào qua được. Benjamin cố thử soi đèn qua những khe hẹp tạo thành từ những thanh gỗ gãy, nhưng bên kia có vẻ cũng chỉ là một đoạn đường hầm kéo dài. Anh chán nản soi đèn xung quanh đống đổ nát, rồi khoảng ánh sáng con con bắt được một phần tường kỳ lạ. Nói thế nào nhỉ, nó sáng hơn so với vách hang xung quanh, như thể đã có ai vẽ hay viết gì đó lên rồi cạo đi, chỉ để lại lớp đất đá nhợt nhạt. Có một chút màu trắng và đen còn sót lại ở rìa, cho thấy đúng là đã từng có thứ gì đó ở đây thật. Anh không chắc việc đó có liên quan gì không, nhưng vẫn lấy điện thoại ra, kẹp chiếc đèn pin vào nách rồi giơ máy lên chụp lại phát hiện của mình. Trên đường trở ra, anh nghĩ mình thoáng nghe tiếng sột soạt của vải vóc cọ vào đá, nhưng không có ai cả, không có ai rình mò Benjamin, hay bật dậy từ những đường hầm say ngủ để chào anh một cái.

Con đường còn lại cũng như vậy, thậm chí nó còn bị sập sớm hơn, ngay chỗ mà nó lại tách ra làm hai hướng nữa. Kỳ lạ là, Benjamin cũng tìm thấy dấu vết của những hình vẽ đã bị bôi xóa ở đây, một cái ở nơi bị sập, một cái ở nửa đường, anh phát hiện rất nhanh, vì đã chủ ý vừa đi vừa soi đèn soi vách hang ở hai bên. Anh vẫn chụp lại cho cẩn thận, dù cũng không chắc lắm về việc nó có giúp ích gì hay không. Loành quành trong này khá lâu, Benjamin phát hiện ra là anh không hề thấy dấu vết của chuột bọ hay rắn rết, đến một cái mạng nhện cũng không. Rất lạ, vì những nơi như thế này đáng lẽ là thiên đường của bọn chúng.

Chiếc xe cút kít vẫn ở yên giữa ngã ba đường, chờ đợi những chuyến chở hàng sẽ không bao giờ còn đến.

Lúc trèo ra khỏi đường hầm anh mới nhận ra là bên trong mỏ tối đến mức nào khi ngay cả ánh sáng nhợt nhạt của Lokheim cũng làm anh đau mắt. Ngoài rừng ấm hơn nhiều, và anh phải hắt xì hai cái mới thấy chân tay mình đỡ buốt đi một tý.

Anh không gặp Abel trên đường trở ra.

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout