Một mình với người kia (1)



Theo quán tính suy nghĩ, Benjamin tưởng mình nhìn nhầm, hoặc là người gác tháp đã trùng hợp đi đâu đó. Đến sáng hôm nay trước khi ra khỏi nhà anh vẫn còn nhận được báo cáo thời tiết của anh ta, nên theo phản ứng thông thường, anh vẫn mặc nhiên tin rằng bên trên ngọn tháp lửa phải có một ai đó. Gần như một điều đương nhiên, không phải sao, một niềm tin vững chắc nhưng thực tế chỉ được dựa trên những bằng chứng rất mơ hồ và lỏng lẻo, và người ta đôi khi vẫn phải ngạc nhiên về sự phi lý của bộ não con người. Đúng là Benjamin chưa bao giờ thấy mặt, hay giọng, hay thậm chí biết tên đầy đủ của người gác tháp, thứ kết nối bọn họ chỉ là những báo cáo thời tiết mà bất cứ ai cũng có thể làm, thế mà anh vẫn cứ mặc nhiên cho rằng anh ta tồn tại.

Mùi bụi và mùi mốc xộc lên từ sàn gỗ cho anh biết rằng không phải mình nhìn nhầm. Căn phòng bên trên tháp canh lửa đã nhiều năm không có ai sử dụng, anh có thể trông thấy lớp bụi mờ phủ lên toàn bộ đồ đạc bên trong. Điều kỳ lạ là vẫn khá đầy đủ đồ dùng, không giống như đã từng xảy ra việc cố ý dọn dẹp đồ đạc để rời bỏ tháp, mà như thể người cuối cùng còn sống ở đây đã ra ngoài vào một ngày bình thường và không bao giờ trở lại, để lại đằng sau tất cả mọi thứ chứng minh sự tồn tại của anh ta. Benjamin trông thấy trên ngăn tủ vẫn còn những quyển sách, nay hầu hết đã ngả vàng, ống bút trên bàn làm việc vẫn được dùng đúng với phận sự của nó, chăn gối vẫn còn nguyên trên giường, được gấp lại gọn gàng. Bồn rửa không có rác hay bát bẩn, nhưng tủ bát phía trên thì vẫn còn ba chiếc bát sứ con, hai chiếc bát tô và ba chiếc đĩa, trong ống đựng có mấy chiếc thìa, dĩa, vài đôi đũa đã mốc. Chiếc máy dò cháy Osborne kiểu cũ đã han rỉ vì lâu không được sử dụng, mặt kính đã vỡ từ khi nào không biết, nhưng bản đồ địa hình của nó vẫn còn tốt, chỉ hơi ngả vàng. Nếu không có lớp bụi dày và sự xuống cấp rõ rệt của đồ đạc qua thời gian, anh sẽ tin là người chủ của chúng chỉ đi ra ngoài một lát, có thể là đi lấy thêm củi hoặc đi sửa lại cái máy phát điện cổ lỗ sĩ, khi những dấu vết sinh hoạt vẫn còn lại rất rõ ràng.

Sàn nhà đầy bụi bắn tóe lên thành một lớp bột vàng li ti khi Benjamin đi sâu vào phòng. Anh có cảm giác mình đang xâm phạm một không gian riêng tư, một chốn ẩn náu của ai đó anh không biết mặt. Anh đang sục sạo một quá khứ đã ngủ yên.

Những quyển sách trên giá đã bị mối gặm và ngả vàng như lá mùa thu, vụn giấy rơi lả tả lên cổ tay anh khi Benjamin rút chúng ra khỏi nơi ở, lật đến trang cuối cùng. Cứ coi như quyển trên tay anh được mua vào năm nó được in, thì cũng phải gần mười năm không còn ai đến đây nữa.

Abel đã nói dối.

Không có ai ở trên tháp canh lửa cả, dù vào ngày đầu tiên Benjamin đến nhận việc, hắn đã nói rằng người gác tháp tên Julian không muốn bị làm phiền nên đừng đến đó làm gì. Vậy thì tất cả những báo cáo thời tiết mà đến giờ anh vẫn nhận đều đặn vào buổi sáng và tối là do ai viết? Những cái lần có người đốt lửa trong rừng thì sao, nếu không có ai quan sát từ trên cao, sao Abel lại phát hiện ra nhanh như thế mà báo cho anh? Ừ, giờ anh mới nhận ra cái cảm giác cấn cấn mà mình có từ ngày đầu tiên vào Afata, rằng bộ đàm chưa bao giờ kết nối đến người gác tháp, ngay cả khi có báo cháy thì cũng là người đó nói với Abel rồi mới đến Benjamin. Anh đã từng nghĩ mãi không hiểu sao lại phải lằng nhằng như thế, rồi hóa ra là bởi vì ngay từ ban đầu đã chẳng có người gác tháp nào cả. Chỉ có anh và hắn, một mình, với nhau, bên trong ngàn dặm xanh mướt của khu rừng rộng lớn.

Nhưng tại sao? Tại sao Abel lại phải nói dối như thế nhỉ? Hắn có thể cứ nói là không có người gác tháp nào, và Benjamin sẽ chẳng thắc mắc gì. Nếu lỡ anh bỏ ngoài tai lời cảnh báo của hắn và chạy thẳng lên tháp canh vào ngày đầu tiên, Abel sẽ giải thích thế nào?

Thực ra lời nói dối chẳng to tát đến thế, có lẽ hắn chỉ không muốn dọa anh sợ với ý tưởng phải ở cùng một kẻ chỉ suýt soát thoát tội sát nhân trong rừng, nên đã tạo ra thêm một kẻ thứ ba nữa bên cạnh ban quản lý. Có thể không. Như nhau cả. Không ai phải chịu tổn thương vì lời nói dối đó, nó gần như vô hại. Anh chỉ phân vân về những thứ mà Abel muốn giấu, như cách mà hắn đã gạt phắt đi khi anh hỏi là ai đã ra tay với con hươu, hay thứ gì đã đứng bên trong vườn của họ, rằng thứ gì thực sự ẩn giấu bên dưới tất cả những lời nói dối và che đậy của người đàn ông tóc đỏ.

Benjamin mở ngăn kéo bàn làm việc, hơi thất vọng khi bên trong chỉ có một ít kẹo đã chảy ra từ lâu và một tập giấy trắng đã mủn nát không còn dùng được nữa, chứ không có một quyển nhật ký bìa bọc da nào cả. Những quyển sách trên giá chỉ là sách thường, không có manh mối hay tựa đề gì đặc biệt, cũng không kẹp một tờ giấy khả nghi nào bên trong. Sau cùng, đây không phải là game giải đố, anh không thể hy vọng vào một lối tắt như thế được.

Anh thử vận may với chiếc giường đơn bé tẹo, cũng không có gì. Sau khi đã sục sạo căn phòng qua một lượt và không thu được gì có thể giải thích ít nhất là một phần cho những câu hỏi của mình, Benjamin bỏ cuộc và đi ra ngoài, đóng cánh cửa lại sau lưng. Cửa vẫn kêu kẽo kẹt.

Gió thổi tóc anh bay phất phơ. Hơi lạnh, Benjamin có thể cảm thấy da gà da vịt nổi đầy hai cánh tay mình bên dưới lớp vải áo. Anh bình tĩnh trèo xuống khỏi tháp canh lửa, cầu thang vẫn kêu ken két một cách đáng quan ngại dưới những bước chân của thanh niên tóc đen, nhưng có vẻ anh cũng không cần lo lắng sẽ có ai đó bị thương vì sự xuống cấp của tòa tháp nữa.

Đáng lẽ Benjamin phải tiếp tục đi tuần, nhưng thay vì tiến sâu hơn vào rừng theo tuyến đường tuần tra, anh quay ngược trở lại căn nhà nhỏ của kiểm lâm ở ngoài bìa rừng. Suốt cả quãng đường anh cứ nghĩ mãi mình bỏ việc như thế thì có sao không, cùng với cảm giác tội lỗi âm ỷ quen thuộc. Nhưng về thì cũng đã về rồi, chỉ một hôm thôi chắc là không sao. Dù Benjamin cũng không chắc liệu anh có trông thấy thứ mà mình nghĩ là sẽ thấy khi trở về nhà không.

Benjamin mở cửa nhà. Căn nhà vắng lặng, lửa vẫn cháy trong lò, tiếng tanh tách gần như không nghe thấy được nhanh chóng bị gió ngoài cửa thổi át đi.

Cửa phòng Abel khẽ hé mở.

Benjamin tiến tới, gần như không nhận thức được là mình làm thế. Cánh cửa chỉ hé ra một khe hở nhỏ, anh chống tay vào tường, ghé mắt nhìn qua khe hở nhỏ đó, trong lòng thầm cầu nguyện rằng sẽ không thấy một đôi mắt vàng kim lạnh lùng nhìn thẳng vào mình từ bên kia cánh cửa.

Không, Benjamin chưa bị phát hiện. Trong ánh sáng lờ mờ từ khung cửa sổ chỉ kéo rèm một nửa, anh nhìn thấy một mái tóc đỏ bù xù xõa ra trên gối, khẽ lên xuống nhịp nhàng theo nhịp thở. Là Abel.

Anh đẩy cửa, nó chỉ kêu cọt kẹt hai tiếng rất khẽ, không làm người đàn ông nọ thức giấc. Anh nhẹ chân luồn qua khe cửa hẹp vào phòng, tiến lại gần giường. Đôi giày của anh dẫm trên sàn gần như không gây ra tiếng động.

Abel đang ngủ, một tay hắn lộ ra ngoài chăn. Anh có thể trông thấy trên bắp tay của hắn có những vết thương như vết kim tiêm, chi chít, bầm tím, như khi ta đi hiến máu, hoặc dùng thuốc. Benjamin sẽ không ngạc nhiên nếu một kẻ vào tình trạng như Abel phải dùng đến thuốc. Đột nhiên anh không nhớ được liệu mình có thấy chúng trước đây không.

Benjamin quay lưng, tiến lại chỗ bàn làm việc. Chồng báo cũ anh thấy từ lần trước vẫn còn ở đó, tờ trên cùng là tờ đưa tin về cái chết của cô kiểm lâm viên Adley Saudade. Anh nhấc nó lên, rồi nhấc cả tờ thứ hai.

Tờ thứ hai đã cũ lắm rồi, giấy sần sùi, ngả màu, ố vàng, như thể chỉ một giây nữa thôi nó sẽ tan thành bụi giấy trên tay anh. Góc trái tờ báo thể hiện nó đã được phát hành từ hai mươi năm trước, mục lớn nhất của trang đầu tiên đưa tin về vụ tự sát đầu tiên trong năm đó, và cũng là cuối cùng, của rừng Afata. Góc dưới mẩu tin là chân dung nạn nhân, một người phụ nữ với mái tóc vàng dài. Theo bài báo, bà được phát hiện đã treo cổ trong rừng vào chiều muộn của một ngày tháng Tám, và bà không phải người Lokheim.

Hai người phụ nữ, hai nạn nhân, sống ở hai thời đại khác nhau, tuổi tác khác nhau, nghề nghiệp khác nhau, nhưng cuối cùng đều chịu một cái kết bi thảm. Benjamin không biết khi đến lượt anh, thì người ta có đưa tin không, và cái chết của anh sẽ ở lại trên mặt báo bao lâu.

“Ai cũng muốn biết thứ gì đã xảy ra với cô ấy, nhưng không ai thật sự quan tâm đến cô.”

Benjamin quay lại, Abel đã tỉnh dậy. Hắn không ngạc nhiên khi trông thấy anh trong phòng mình, cũng không nổi giận, đôi đồng tử vàng rực trông giống như hai hồ nước vàng đã đóng băng trong ngày lạnh nhất của mùa đông. Cái chăn tuột xuống bụng khi người nọ ngồi dậy, Abel không mặc áo, băng trên những vết thương cũ chưa lành được Benjamin quấn cho đã hơi lỏng lẻo vì hắn cựa mình khi ngủ, trên ngực và lưng hắn chỉ có nhiều sẹo hơn trên cánh tay, chứ không ít hơn. Benjamin không biết rốt cuộc hành trình của hắn phải đau khổ và nguy hiểm đến thế nào, mới để lại những dấu tích đáng sợ đến vậy trên da thịt người nọ.

“Vậy anh có quan tâm không?”

Abel thở dài, trông còn đau khổ và già nua hơn cả trong lúc ngủ. Mà lúc nào trông hắn chẳng như thế, trông người nọ như một ca bệnh đầy tiềm năng của chuyên viên tư vấn tâm lý vậy. “Không đủ để giữ cô ấy sống.”

Đôi khi, anh cũng thấy ghen tỵ với Adley Saudade.

Anh hít một hơi thật sâu. “Abel, trên tháp canh lửa không có ai cả.” Benjamin không muốn dùng giọng chất vấn, anh chỉ khẳng định, như khẳng định một sự thật hiển nhiên.

“À, vậy là cậu đã lên đó. Đúng.” Abel gật đầu, không chút nao núng khi bị vạch trần.

“Tại sao?”

“Vì cậu thực sự là một kiểm lâm, cậu sẽ nghi ngờ.” Hắn đáp, chẳng đầu chẳng đuôi.

“Vậy báo cáo thời tiết và thông báo có người đốt lửa trái phép là ai làm?”

“Tôi.”

Benjamin đặt hai tờ báo trở lại chồng. Anh ngước lên nhìn trần nhà, mắt chớp nhanh, cố để nước mắt không rơi ra khỏi khóe mi. “Anh lúc nào cũng cư xử như thể mình có tội vậy.”

“Chúng ta ai mà chẳng có tội.” Giọng người nọ vẫn đều đều. “Cậu cũng vậy thôi.”

Anh nghĩ về những tiếng kêu cứu không bao giờ dứt luôn vang vọng mỗi đêm thâu, nhận ra không có ai trong căn phòng này có đủ tư cách để phản bác. Benjamin nhìn thấy ảnh ngược của mình trong đáy hồ vàng rực của người nọ, nhận ra bọn họ đã đau khổ quá lâu vì cùng một chuyện, quá giống nhau đến nỗi anh thoạt đầu còn chẳng nhận ra.

Bọn họ căm hận chính mình vì đã sống sót, mà lại không thể chết đi, chỉ vì cái mạng của họ là dùng mạng của người khác để đổi lấy, đã được mua đứt và không còn là của họ. Bọn họ chỉ có thể tiếp tục hít thở và chịu đựng cho đến cái ngày món nợ được thanh toán hết.

Hai bóng ma trong phòng, có dáng hình lờ mờ của một cô gái tóc xám trắng và một người phụ nữ tóc vàng quay qua nhìn anh trong một cái nhìn câm lặng và ám ảnh, như cái nhìn đã dừng lại vĩnh viễn ở khoảnh khắc tấm ảnh được in lên mặt báo, rồi biến mất ngay khi Benjamin chớp mắt.

Ôi, anh dùng mu bàn tay gạt khóe mắt, giá mà anh có thể thế chỗ được cho họ thì tốt biết bao.

Benjamin không đi tuần nữa vào buổi sáng hôm ấy, mà kê ghế ngồi ở chân giường Abel đan chiếc khăn len màu vàng, vừa đan vừa trông hắn ngủ. Người đàn ông tóc đỏ nhăn mặt và chỉ ra rằng chẳng có người nào bình thường lại muốn ở cạnh một kẻ mà bản thân vừa phát hiện hắn đã nói dối mình hết điều này đến điều khác như thế, rằng việc đáng lẽ ra anh nên làm bây giờ là xuống thẳng ban quản lý nộp đơn xin nghỉ. Benjamin nhún nhún vai, thừa nhận là thực ra có lẽ anh cũng có vài chập cheng chỗ này chỗ kia trong não. Abel đảo mắt, nhận ra mình lại chỉ đang đấm vào một bịch bông như mọi khi, thế là cũng trùm chăn ngủ tiếp thật, và hai kiểm lâm duy nhất của rừng Afata cứ thế trốn việc một cách vô cùng đường hoàng và hết sức trơ trẽn. Không gian chỉ còn lại tiếng lanh canh khe khẽ khi đầu mũi que đan bằng kim loại chạm vào nhau, và tiếng thở của Abel, thi thoảng lọt vào vài tiếng thở khò khè như kẻ bị hen lâu năm. Anh khá thích đan len, dù đã lâu không đan rồi, đó là một chuỗi những hành động giản đơn, chỉ vắt len lên rồi luồn kim qua, không phức tạp và cũng chẳng yêu cầu nhiều sự tập trung, lặp lại và lặp lại, và Benjamin có thể để phần lớn dòng suy nghĩ của mình đi lang thang đâu đó thật xa, hoặc đơn giản là cứ giữ cho tâm trí mình trắng xóa. Không nghĩ gì cả, chỉ nghĩ về những mũi len trên tay.

Hắn ngủ thẳng đến tận giờ ăn trưa, anh cũng không gọi, cứ đúng giờ là đi nấu cơm rồi mới lay Abel dậy ăn. Hắn càu nhàu khó chịu, trông như chỉ muốn đá anh ra khỏi phòng như đá một con ruồi phiền nhiễu.

Buổi chiều hôm đó Benjamin vẫn đi tuần một cách nghiêm túc. Anh bắt gặp một đống lửa trại nhỏ, hẳn là vì nhỏ quá nên không ai phát hiện ra, vẫn thực hiện quy trình dọn dẹp theo quy định trước khi chôn xuống dưới lớp đất và tàn tro xám xịt một vật trang trí nhỏ bằng gỗ. Tro vẫn còn ấm, hẳn là người đốt lửa mới rời đi không lâu, nhưng anh không bắt gặp họ trên đường trở ra.

Có tiếng chặt củi phát ra từ bên hông nhà khi Benjamin trở về. Mấy nay anh phụ trách việc đun nước vì lo cho vết thương của Abel sẽ lại rách ra nếu hoạt động quá mạnh, nhưng hắn vẫn cứ giữ thái độ bất cần như thể hắn có khả năng hồi phục của lũ kỳ nhông và bỏ ngoài tai mọi lời can ngăn của anh. Đến tận giờ lúc Benjamin bảo để ăn cơm xong rồi anh làm nốt cho cũng bị lừ mắt lườm một cái sắc lẻm. Rất dỗi. Hắn không phải một con búp bê bằng sứ thật, nhưng anh mà cứ đối xử với Abel như cách mà hắn muốn chắc anh sẽ bị tống vào tù vì tội ngược đãi người bệnh mất. Hôm đó trời rất lạnh, anh nghe được tiếng gió thổi thốc khi ra ngoài sân phơi thu quần áo, chúng luồn vào áo khiến da anh nổi đầy gai ốc vì lạnh, vò rối tóc Benjamin, hất tung cả đống lá rụng ở góc vườn mà chiều đó anh vừa gom lại cho gọn, những ngọn cây nhòn nhọn như mũi cây lao vẫy chào anh từ bên trong khu rừng tối tăm một cách đầy đe dọa.

“Tôi vẫn cần gửi báo cáo thời tiết cho Hag chứ?” Buổi tối khi ngồi vào máy tính, một bản báo cáo vẫn đợi anh như mọi khi, như thể trên tháp canh lửa thật sự có một người gác tháp tên Julian.

“Cứ gửi đi.” Hắn không ngẩng lên từ cuốn sách, nhạt nhẽo đáp lời, không có một tý xíu xấu hổ hay chột dạ nào. Giờ nhớ lại, đúng là thi thoảng anh có thấy hắn hay cầm điện thoại vào thời điểm báo cáo được gửi.

“Rồi rồi. Nhưng sao mà anh đo tốc độ gió được nếu ở dưới mặt đất, quanh đây đâu có chỗ nào thoáng đãng đâu?”

“Cậu hỏi hơi nhiều so với mức lương được trả đấy.”

Benjamin le lưỡi. Anh đi mách Hag hắn làm ăn gian dối bây giờ. Mà không biết ông ta có biết là Abel đã nói dối không nhỉ?

“Không, chúng tôi không có người gác tháp nào từ lâu lắm rồi. Tại sao cậu hỏi vậy?”

Được rồi, mọi chuyện có vẻ bớt vui rồi, dù câu trả lời của người quản lý cũng không quá khác so với anh đã dự liệu. Làm gì có chuyện Abel giả vờ giả vịt được nguyên một con người như thế, mà cũng chẳng để làm gì. Chỉ có anh là kẻ ngốc duy nhất ở đây thôi.

“Abel nói với tôi rằng là có, hôm nay tôi đến chỗ tháp muốn chào hỏi đồng nghiệp thì mới phát hiện ra là chẳng có ai cả.” Benjamin nhún nhún vai, tay vẫn không ngừng việc sắp xếp tài liệu. “Báo cáo thời tiết thực ra là hắn làm à?”

“Ừ, việc gì cũng đến tay cậu ta cả. Chắc cậu ta nói vậy để cậu yên tâm, cậu cũng biết tình hình trong rừng dạo này mà.” Hag ngáp một cái rõ dài. Hình như hôm nay là ca trực của ông, vì anh trông thấy một cốc cà phê hãy còn bốc khói trên bàn làm việc. Vật trang trí nhỏ bằng gỗ nọ vẫn hiên ngang được treo ở chỗ dễ thấy nhất, hơi giống như khi những tay tài xế taxi treo một đống bùa và túi thơm ở gương xe.

“Anh không thấy lạ khi hắn có thể phát hiện cháy rừng nhanh và chính xác đến thế à?” Trong chồng tài liệu mà anh phụ trách dọn dẹp mấy hôm trước có mấy bản báo cáo cháy rừng, lâu phết rồi, nhưng chắc chắn là sau khi tháp canh đã bỏ không. Kể cả đi tuần rồi phát hiện thì cũng không thể nào trùng hợp như thế, con người chứ có phải radar dò cháy đâu.

“Thật ra đôi khi sau khi trông thấy một ai đó quá giỏi giang đến mức phi thường, ta lại dần coi đó thành điều đương nhiên.” Hag trả lời sau một thoáng ngẫm nghĩ. “Thật ra như thế không đúng quy định thật, tụi tôi cũng mấy lần muốn tìm người thế mà anh ta cứ gạt phắt đi. Đến thị trưởng cũng bảo cứ kệ anh ta đi, nên lâu dần cũng thôi.”

Uầy, thông tin mật, hóa ra Abel còn có thể là con ông cháu cha sao? Đến thị trưởng cũng phải nể mặt, hôm nào anh phải hóng hớt gia thế của hắn mới được. Benjamin chống cằm, làm như vô tình hỏi.

“Thế người gác tháp cũ đâu rồi? Sao lại không làm việc nữa?”

“Chỗ này có ai làm được lâu bao giờ đâu. Cậu ta cứ nghỉ thôi.”

Lúc nói câu này, ánh mắt của Hag hạ xuống nhìn tập hồ sơ trong tay, chứ không nhìn anh. Anh nhìn vẻ trốn tránh trong đáy mắt ông ta và bàn tay vô tình siết chặt trong một phản ứng vô thức, hiểu rằng có đến chín mươi chín phẩy chín phần trăm là người đối diện đang nói dối. Tình trạng đồ đạc bên trong tháp canh lửa không hề giống như khung cảnh thường thấy khi chủ nhân của nó chuẩn bị rời đi, nhưng anh không vạch trần ông ta.

“Anh có nghĩ…người đó nghỉ việc vì bị tấn công không? Hình như cũng có kiểm lâm kể là cảm thấy như bị một kẻ lạ mặt rình rập mà.”

Hag lắc đầu. “Chìa khóa tháp canh chỉ có cậu ta giữ thôi, nên không thể nào. Cảnh sát cũng điều tra rồi, không có chuyện đó đâu.”

Lời đã nói ra đến miệng Hag mới nhận ra là mình đã nói hớ, lo lắng đánh mắt sang phía Benjamin, nhìn thấy anh vẫn đang cúi đầu bỏ từng bó hồ sơ vào thùng giấy, không có vẻ gì là nhận ra điều kỳ lạ trong lời ông ta thì mới thở phào. Anh không phản đối khi người quản lý lái câu chuyện phiếm sang hướng khác, đó là những chuyện lông gà vỏ tỏi kinh điển rằng khoản đầu tư ông ta mới mua gần đây có lợi nhuận khá tốt hay cháu họ ông mới đón con gái đầu lòng, nhỏ nhặt, tầm thường, sẽ biến mất khỏi tâm trí anh ngay khi ngả lưng xuống giường đêm đó, nhưng anh vẫn tỏ ra là mình lắng nghe, không nỡ dập tắt tâm trạng tốt của người đối diện. Trông Hag có vẻ vui. Ông ta trông cũng cô đơn gần bằng người đàn ông tóc đỏ sống một mình bên trong rừng Afata. Anh nghĩ có khi đó là lời nguyền mà những ai tình nguyện gắn bó với khu rừng sẽ phải chấp nhận như một cái giá phải trả, khi muôn dặm ngút ngàn đó chẳng giỏi gì hơn là bòn rút từ họ mọi niềm vui nhỏ bé trên đời.

Sau khi đã xong việc, Benjamin trở về căn nhà nhỏ bên bìa rừng. Abel vẫn còn thức, đang cuộn tròn người trong chăn đọc sách như con mèo to lớn nhất đời, chỉ khẽ ngẩng lên khi nghe tiếng cửa mở. Anh cũng trèo lên sofa ngồi cạnh hắn, còn tiện tay kéo một góc chăn phủ lên bụng, bị hắn lườm một cái cháy da cũng mặc kệ.

“Hag bảo người canh tháp đã nghỉ việc.” Anh ghé sát vào người Abel, cố tình xâm phạm vào không gian cá nhân của hắn như một cách gây áp lực. “Nhưng đó không phải là sự thực đúng không?”

“Ừ.”

“Điều gì đã xảy ra?”

“Cậu ta đã tự treo cổ mình trên một cây du trăm tuổi ở gần tháp.” Abel nhếch môi. “Cậu không biết à?”

“Ừ, cái này thì tôi không biết thật.” Không có hồ sơ nào thuộc về người gác tháp trong tài liệu mà Benjamin kiếm được, dù sao thì nó vốn cũng đã không đầy đủ. Có thể đơn thuần là bị thiếu, hoặc vụ việc đã bị ém đi. Cũng không phải một chuyện gì tốt đẹp để mà làm rùm beng lên.

“Nghỉ việc đi, không cậu cũng sẽ như cậu ta đấy.” Hình như từ khi tới đây, câu mà hắn nói với anh nhiều nhất toàn là xúi anh nghỉ việc. Trần đời chưa từng thấy thể loại cấp trên nào như thế cả.

“Anh không nghi ngờ thực ra cậu ta bị hại sao? Như…” Tên của cô gái xấu số đã ra đến miệng, nhưng cái nhìn chết chóc trong đôi đồng tử vàng rực của người kia làm Benjamin phải nuốt lời muốn nói ngược trở lại vào dạ dày.

“Đến cảnh sát cũng kết luận là tự sát rồi, cậu với tôi nghi ngờ thì ích gì?” Abel lạnh giọng, những đường nét khắc nghiệt trên khuôn mặt sương gió gần như có vẻ đe dọa ngấm ngầm. “Hơn nữa tôi không nghi ngờ, tôi biết chắc.”

“Anh biết chắc cái gì?”

Lần này, hắn không trả lời câu hỏi của anh nữa.

1

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout