Thanh Giang Ký
-
Sáng tácQuách Cửu Linh
Mưỡu:
“Nhân tình thế thái ngán thay
Đảo điên như trở bàn tay đó mà
Cuộc đời biến ảo bao xa
Ấy là thương cẩu, hay là bạch vân?”
Nói:
Mụ Tú vén lá màn lên để màu thuỷ ngân tràn vào phòng rồi nằm nghếch chân trên trường kỷ, vắt tay lên trán nhìn mãi vầng trăng mỗi lúc một cao. Thi thoảng, mụ lại gãi sồn sột vào chỗ da phồng lên vì muỗi đốt và quát tháo bọn hầu nhỏ, bảo chúng nó đốt thêm hương, rắc thêm bột thơm quanh phòng cho khỏi muỗi. Mãi tới khi mảnh trăng vàng thiu đã quằn quại trên chóp lầu nhọn hoắt tựa lưỡi lê, khiến suốt thế gian tràn một màu máu bạc, mụ mới nhủ thầm “được rồi đấy” và đứng dậy khỏi chỗ ngồi, giũ những vỏ hạt dưa bám đầy trên vạt váy lụa điều đánh soạt một cái xuống nền đất rồi bước ra ngoài hiên, thầm thì mấy câu với một lão bộc khom lưng đứng hầu. Nghe xong mấy lời mụ dặn, trên khuôn mặt khô xác của lão bộc hơi có vẻ gì khó coi nhưng chỉ thoáng qua thôi để rồi nhanh chóng trở lại cái vẻ khúm núm, thiết tha thường thấy. Lão vâng, dạ luôn mồm rồi cất bước đi ngay. Bấy giờ, nhà nhà đều đã tắt đèn đi nghỉ cả, phố phường im ngăn ngắt như ru. Vào lúc những người lính tuần cần mẫn nhất cũng yên trí rằng nơi đây chẳng còn gì đáng ngại mà trở về trại, lần ruột tượng lấy ra mấy đồng hào kiết rồi nhập cuộc cùng đám đánh bạc thâu đêm suốt sáng, miệng thét gào nảy lửa những tiếng “trường tam”, “yêu tứ”, “tạp thất” như tướng quân đánh trận thúc binh, mặc cho bao lần sòng đời thua đến trắng hai tay thì cửa sau của quán Đan Thanh mới khẽ khàng hé mở. Song vì cánh cửa đã cũ, lại lâu không được tra dầu cho trơn nên dẫu người mở có cẩn trọng tới đâu cũng khó lòng tránh khỏi việc cánh cửa phát ra tiếng cót két nghe như tiếng khung cửi đưa lại ngày ngày của người oán phụ. Thấy bốn bề không có một bóng người lại qua, lão bộc khẽ vẫy tay ra hiệu cho mấy kẻ vai u thịt bắp rón rén khiêng một cuộn chiếu rách nát bó chặt hai đầu ra bên ngoài. Bọn họ hộc tốc dốc gan chạy trên đường như bị ma đuổi, không một ai dám nhìn lại phía sau, chỉ biết cắm đầu mà chạy cho nhanh. Chẳng mấy chốc, họ đã băng qua vài dãy phố. Càng đi, những nhà dân cư ngụ ở hai bên đường càng chìm lại phía sau. Bốn bề chỉ rặt những bờ hoang bụi rậm, cây cỏ đìu hiu, lách lau vàng võ. Đến một chốn tựa hồ như bãi tha ma, mà đúng là bãi tha ma vì nơi đây nhìn thế nào cũng chỉ thấy lô nhô lớp lớp sóng mồ, hai tên gia nô nhìn nhau, hít sâu một hơi, lấy hết sức lẳng mạnh cái chiếu vào trong bãi tha ma rồi chạy trối chết. Cái chiếu rơi xuống đất đánh bịch một cái, tiếng nặng nề ấy là tiếng khi da thịt vật gì tiếp đất một cách chẳng mấy nhẹ nhàng. Nhưng vật ấy là vật gì thì cũng chẳng quan trọng nữa, chỉ biết là từ khi bị quăng mạnh như vậy, nó đã nằm yên rất lâu, như thể là đã chết. Những kẻ quăng nó đứng từ xa nhìn lại không thấy động tĩnh gì cũng yên trí là nó đã chết. Bọn họ thở phào nhẹ nhõm và bắt đầu bàn về cái mùi kinh tởm còn bám trên tay, mùi của người bệnh giang mai và ti tỉ thứ bệnh khác nhiễm phải khi lăn lộn trong cái trường trăng gió, có kẻ tỏ ý tiếc rẻ lại bị nói át đi ngay.
“Cái con điên đó thực là đáng ghét! Suốt ngày ra vẻ làm bộ, õng ẹo ngoa ngoắt, không ra làm sao cả. Đã mang mình bán vào cửa này mà làm như vẫn còn là cành vàng lá ngọc. Nay nó chết như thế tôi cũng được thoả lòng.”
Đang bàn tán nửa chừng, bỗng chốc mây loà bóng trăng, gió lùa dào dạt, chẳng bao lâu sau, trời đổ cơn mưa dữ dội. Đám người nọ vội vã tìm chỗ trú chân. Bấy giờ, bọn họ đã cách bãi tha ma một đoạn khá xa. Bọn họ không trông thấy cuộn chiếu rách khe khẽ động đậy, cũng không nghe thấy tiếng nức nở nhè nhẹ phát ra từ trong đó. Hồi lâu sau, một hình người xé mở nếp rách bên thân chiếc chiếu mà ngọ nguậy chui ra. Mưa to gió lớn làm nhoè những tiếng nghẹn ngào của người nọ, cũng làm bê bết đất bùn bên ngoài, khiến bốn bề lõng bõng toàn một thứ nước sẫm nâu sền sệt. Người nọ nhìn bốn phía, thấy mưa, thấy đêm giăng đầy lòng bàn tay, quyện đẫm trong con mắt. Cô ta muốn gượng mà đứng dậy song vì yếu quá nên không sao đứng nổi, vừa chấp chới đã vội khuỵu xuống, thoi thóp trong bùn đất, nom chẳng khác nào một con trùng lầy lội giữa đống phân. Bất chợt, một tia sét loé lên rạch ngang thân trời, khiến cô ta choáng váng ngất ngay đi. Trong lúc mơ màng, cô ta thấy mình mê man đi vào một chốn lạ lùng. Đương lúc cô ta tìm đường ra thì nhác thấy một người quen đang đứng trên một ngôi lầu cũ, ánh mắt đăm đắm trông về phía chân trời xa xăm. Từ thăm thẳm có con hạc vàng đang bay tới, không biết định đón người ấy đi đâu. Người này tư dung như vẽ, áo khăn dịu dàng, trông có vẻ thoát hẳn trần tục. Trông dáng điệu và hình dung ấy, cô ta lạnh mình nghe dải ký ức trườn qua tâm trí, để lại những vệt cào xước dài bỏng rát mà sâu. Cô ta nhỏ nước mắt, lòng ngổn ngang trăm mối, mừng mừng tủi tủi, vội vàng chạy đến định kéo lại hỏi. Song người ấy thấy vậy thì giật mình tránh ra, không để ý gì đến, chỉ khẽ cười bảo.
“Tôi là người ngoài cửa, nào biết được “đào” với “lý” gì, cô nhận lầm rồi đó.”
Cô ta nghe người ấy nói như vậy thì sững sờ ngây dại, hồi lâu không đáp được câu gì, lại nghĩ tới mình bệnh tật đã lâu, hình dung nhếch nhác, hổ thẹn quá chừng, song mối tình trong dạ vẫn còn vấn vương nên vẫn dùng dằng không nỡ dứt, đương muốn hỏi thêm thì người ấy đã cưỡi hạc vàng đi mãi về phương xa mà chẳng chút luyến lưu. Chợt, một cơn gió thổi qua làm cô ta lạnh buốt tới tận xương. Cô ta giật mình bừng tỉnh lại, vươn tay ra muốn ôm ghì lấy mộng thì chỉ quờ được toàn trống rỗng. Lạnh lẽo tản mác dần, thấm vào từng đầu ngón tay tê dại. Nước mưa buốt giá làm cô ta dần hồi tỉnh. Cô ta lồm cồm bò dậy, bấy giờ cô ta mới thấy quanh đây nào có lầu xưa chốn cũ, người tiên hạc vàng, chỉ thấy ở trước mặt mình có một ngôi miếu đổ nát, bên trong có một ngôi mộ cũ mộc vị xiêu vẹo, đất lở tạp nham, cạnh ngôi mộ ấy có một đạo sỹ cụt tay, áo quần rách bươm như tổ đỉa, mặt xấu như quỷ đương ngồi xếp bằng trú mưa. Cô ta gạt nước mưa đầm đìa trên mặt, gượng cất giọng khàn khàn, hỏi tên tuổi vị đạo sỹ nọ. Vị đạo sỹ cười nói.
“Ta là người nào, ta cũng không biết rõ. Ta chỉ biết oan nợ của cô hãy còn, nếu cô còn ở lại đây tất là không tránh được hoạ sát thân. Đã gặp nhau ở đây tức là có duyên, nếu cô thuận lòng nghe lời ta, ta sẽ dẫn cô đi để tránh cái hoạ ấy.”
Cô ta nghe vậy liền nói.
“Ấy là những lời gì? Xin sư phụ dạy cho con được biết.”
Vị đạo sỹ liền nói.
Cảnh xuân qua đã qua rồi
Tằm xuân chết rũ tơ đời thôi vương
Trên đầu tóc bạc như sương
Còn đâu thuở trước phấn hương đượm nồng
Thiều hoa xem cũng như không
Quần liên áo ấu tránh hồng trần dây
Kệ kinh diệt mối sầu này
Đạo tâm trừ bỏ hận đầy bể mê
Màu hoa đi mãi chẳng về
Sen tàn nghe tiếng tỉ tê mưa chiều
Đèn xanh một ngọn tiêu điều
Cà sa một tấm cô liêu một mình
Nửa đời trót lạc vô minh
Quẩn quanh trả nợ oan tình đã xong
Lệ đền lệ đã ròng ròng
Cung chiêu ân oán sạch trong rạch ròi
Tấm thân này đã rã rời
Tìm về rừng thẳm lịm nơi yên hà
Phương tây có cõi Ta Bà
Hình như có quả gọi là Trường Sinh.
Những lời huyền diệu ấy phủ lên tâm trí cô gái nọ một tầng sương khói, làm cô ta ngây ngẩn hồi lâu. Vị đạo sỹ vẫn nhắm mắt ngồi nhập định, nhưng dường như ông đã trông thấu chuyện hồn cô đương chênh chao mãi giữa nơi rìa sáng tối, không thể rơi xuống mà cũng chẳng thể thoát lên. Song, cuối cùng, thay vì tỉnh ngộ ra ngay mà tiến thêm mấy bước nữa để đến gần hơn với người đạo sỹ mà đặng giải thoát thì cô ta lại cho rằng đó là những lời rồ dại để rồi mê man quay người tìm một cành cây khô xác làm gậy chống, khập khiễng lần mò đi xuống tối tăm dốc núi, hoang hoải chạy mãi theo mơ tưởng về một mảnh trăng rơi. Mưa gió đêm thâu mặc sức rải mình lên thân thể cô ta nặng trĩu, trút xuống người cô cả ngàn tiếng câm lặng bi ai. Vị đạo sỹ hé mắt trông theo mãi cho tới khi bóng dáng cô đã chìm hẳn giữa lớp lớp sóng cây cồn đá rồi lắc đầu thở dài như thể xót thương cho một kiếp chúng sinh còn quẩn quanh mãi không sao thoát được vòng luân hồi nghiệp chướng. Tiếng thở dài ấy loang vào không gian sầm sập, mau chóng bị tiếng đời dội tắt. Thế rồi mặc cho bốn bề mưa to gió dữ, sấm động rền vang, đạo sỹ đứng dậy vun vút đi về phương xa, chẳng mấy chốc đã mất hút vào màn mưa giăng trắng xoá.
0 bình luận