Tôi hay thường kể với người khác rằng tôi sống với ông bà nội từ nhỏ, vốn không phải bởi vì tôi muốn chối bỏ quãng thời gian khi còn bé xíu, mà là bởi dù có cố cách mấy, những điều tôi nhớ lại được về năm tháng ấu thơ cũng vô cùng vụn vặt. Trí óc con người là vậy, nó vận hành theo cách tự động xóa đi những kí ức mà mỗi chúng ta không muốn nhớ đến. Họa hoằn lắm - ấu thơ có ghi lại được gì trong tâm trí tôi - thì đó cũng chỉ là những mảnh ghép vô cùng rời rạc mà ghép lại thì tuổi thơ tôi sẽ thành một bức tranh chắp vá chẳng có chút thẩm mĩ nào.
Có lẽ trong những lỗ hổng của bức tranh ấy sẽ xuất hiện hình ảnh của bố tôi trong phòng trọ chật hẹp chẳng biết có được hơn mười mét vuông hay không mà hai mẹ con tôi dắt díu nhau. Tôi nhận ra trong năm năm đầu của cuộc đời, tôi không nhớ gì nhiều về bố. Thậm chí ngay cả khi tôi ấn tượng sâu sắc về cô Trang “trọc” trong xóm trọ khi ấy là một người nói rất to nhưng không để bụng cái gì bao giờ và hay giúp đỡ người khác đến mức sau này xem bộ phim truyền hình “Phía Trước Là Bầu Trời” gặp nhân vật Trà tôi nhớ ngay đến cô, thì tôi chưa bao giờ gặp được hình ảnh nào gợi cho tôi một kí ức lờ mờ về bố trong những ngày tôi còn bé. Xin chớ hiểu lầm rằng tôi nhớ đến cô Trang “trọc” khi thấy cô Trà “cave” là bởi vì cô Trang làm một công việc giống như cô Trà. Tôi chỉ đang cố diễn đạt rằng một đứa trẻ con chưa đến năm tuổi đã ấn tượng như thế bởi một người phụ nữ hàng xóm bản lĩnh, một mình nuôi con mà vẫn hào sảng, cởi mở và sẵn lòng giúp đỡ mọi người – trong khi cũng khoảng thời gian ấy, nó không nhớ gì nhiều về bố.
Nói rằng bố tôi hoàn toàn vắng bóng trong những năm tuổi thơ bé của tôi thì cũng không đúng. Tôi biết là ông yêu tôi rất nhiều. Tôi cũng có những kỉ niệm của những đứa trẻ được bố yêu thương khác như những lần được ông bế bổng lên cao, những lần ngồi lên chân ông rồi được ông nhấc lên và gọi đó là “cần cẩu”. Trong phòng, tôi vẫn còn cất con chó bông mà trong một dịp công tác nào đấy bố đến Lạng Sơn, ông đã mua cho tôi và bảo “Ở nhà nhớ bố thì cứ lấy con cún này ra ngắm nhé”.
Được độ vài năm thì phải, nói chung là cũng trước khi tôi năm tuổi (tôi nhớ dấu mốc năm tuổi ấy dữ lắm, vì năm đó em trai tôi ra đời và cuộc đời tôi lại có thêm mấy phần xáo trộn), gia đình tôi chuyển sang sống trong một căn nhà khác được dựng trên mảnh đất của bác hai. Bác đã định cư ở nước ngoài từ lâu, mảnh đất này không rõ bác mua từ bao giờ. Từ lúc nhà tôi dọn về đấy ở cho đến năm tôi học năm cuối phổ thông mảnh đất ấy vẫn còn, tiếp tục trở thành nơi ở của cả nhà bác ba.
Không phải nhà đi thuê trọ, giờ giấc sinh hoạt cũng thoải mái hơn phần nào. Có điều, hình như kinh tế nhà tôi vẫn eo hẹp và cuộc sống vẫn phải để đến mẹ tôi tằn tiện chi tiêu. “Nhà tôi” ở đây tức là gia đình nhỏ của tôi thôi, còn gia đình các bác bên nội và nhà ông bà nội thì cũng thuộc hàng trung lưu khá giả. Ông bà và các bác chưa bao giờ tiếc chúng tôi thứ gì kể từ ngày được sinh ra. Vài điều khó khăn nhỏ nhặt mà chúng tôi phải nếm trải chỉ một tí xíu, chẳng qua cũng chỉ xuất phát từ mâu thuẫn của mẹ tôi với nhà chồng. Dù sao thì trong suốt những năm tháng bé thơ, tôi vẫn luôn yêu thương cả hai bên nội ngoại và chưa từng bị tiêm nhiễm điều gì khủng khiếp như mấy bộ phim về mẹ chồng nàng dâu trên song truyền hình đến mức ghét bỏ bên này hay thù hằn bên kia. Thế là đủ để đến khi lớn lên tôi phân biệt rạch ròi được mối quan hệ giữa nhà nội tôi với mẹ và mối quan hệ giữa tôi với nhà nội: một bên là người dưng còn một bên lại là máu mủ ruột thịt.
Ngày tôi còn nhỏ, mẹ đi làm công nhân bận rộn nên tôi thường chơi ở nhà ông bà nội đến tối rồi được mẹ đón về nhà. Nhà ông bà và nhà tôi chỉ cách nhau độ một cây số, có khi chưa đến. Nói là chơi thôi chứ những ngày trong tuần tôi vẫn đi mẫu giáo như các bạn cùng trang lứa khác. Không nhớ ông tôi ở cùng từ khi nào vì trước đó ông ở nhà bác hai trong phòng anh con lớn nhà bác. Sau này khi nói về chuyện học của tôi ông vẫn nhắc chuyện mỗi tối ông đi ngủ thì đèn bàn học anh vẫn sáng. Sau này nữa, khi dạy em trai tôi học ông lại kể ngày nào ông cũng thấy tôi ngồi bàn học đến mười một giờ đêm. Ông bà ở riêng cũng không phải có xích mích gì với nhau, mà tình yêu thời ông bà thì có nhiều chuyện hay lắm, tôi cũng không biết giải thích thế nào cho rõ ràng được.
Ông bà nội chiều tôi nhất trong số các cháu nội, ngoại. Cho dù ông bà có đến bốn người con và trên bố tôi là ba chị gái. Cho dù em trai tôi vừa sinh ra đã mang nặng cái trách nhiệm muôn thuở của mấy gia đình truyền thống phía Bắc là “cháu đích tôn của cả dòng họ”. Cho dù trong số các con, bác cả tôi làm quan chức cho ông bà mát mặt với cả dòng họ, bác hai tôi định cư ở Đức mà thời ấy thì nhà nào có “Việt kiều” là oách lắm, bác ba tôi lại làm ăn phát đạt và mua sắm cái gì cho ông bà cũng thuộc hàng đắt đỏ, chất lượng; còn bố tôi thì kể từ ngày tôi biết nhận thức vẫn không biết cụ thể công ăn việc làm của bố là gì.
Ông nội thường hay đưa đón tôi đi học mẫu giáo. Đôi khi ông cũng phải sốt ruột vì tính tôi hay lề mề. Chính mẹ tôi cũng bảo mấy bố con tôi lúc nào cũng đủng đà đủng đỉnh, nguyên văn câu nói của mẹ là chúng tôi “có chết cũng phải từ từ”. Hôm nào đưa tôi đi học, mẹ cũng sôi hết cả ruột gan lên vì có cốc cháo thôi mà tôi cũng chậm chạp nhai nuốt mãi chưa xong. Mẹ còn phải xin cái đĩa để múc cháo ra cho mau nguội vì tôi không ăn được đồ nóng quá. Không có cái đĩa thì tôi không đếm nổi chỉ riêng từ khi đi học lớp mầm thôi tôi đã muộn học bao nhiêu lần.
Nhưng rồi, sống mãi với một người đàn ông cả đời không bao giờ nghĩ đến chuyện có làm thì mới có ăn, rồi cũng đến ngày gia đình nhỏ của chúng tôi tan đàn xẻ nghé. Tôi bước chân vào cánh cửa đại học với một nhân dạng thủng lỗ chỗ, luôn tự phủ nhận nỗi bất hạnh của chính mình, tôi chối bỏ mọi thiệt thòi đã từng chịu để rồi một ngày kia, chính viên đạn của quá khứ đâm thủng trái tim tôi ở hiện tại.
Trái tim tôi quặn thắt, đau đớn, thét gào, nó thoi thóp và đầm đìa máu. Bây giờ, một, là tôi chấp nhận những đớn đau thực sự tồn tại về cái quá khứ kinh khủng hơn cả phim truyền hình Hàn Quốc; hai, là tôi từ chối hòa giải với quá khứ, luôn vin vào lí do mình còn hạnh phúc hơn nhiều người để mù mắt đi trước những nỗi bất hạnh trái tim đã – đang và sẽ luôn gánh chịu – để rồi nó sẽ chết.
Như Victo Hugo nói, tôi đã tìm thấy nguồn an ủi khỏi cuộc đời từ những cuốn sách. Tôi phải chọn Benjamin Franklin[1] hay chọn Nguyễn Nhật Ánh?[2]
Con tim quá yếu đuối, mà tình yêu với bản thân mới là tình yêu vĩnh cửu suốt đời. Cứ đi đi rồi sẽ đến, ai sống rồi cũng nhận ra cái chân lí ấy chứ chẳng cần nghe lời của đếch ai.
Tôi không tin Nguyễn Nhật Ánh, cũng mặc kệ Franklin. Sống là thứ bổn phận trời dúi vào tay mà[3]. Và cũng vì thế mà tôi lôi hết ông nọ bà kia ra dẫn chứng cho những suy nghĩ của mình. Về mặt bản chất, con người là một sinh vật cô độc.
Tôi một mình đối diện với chính mình để hiểu được những điều mà họ chắp bút thành văn. Tôi trở về với bản thân lúc nguyên sơ với lời tự dặn không được đánh mất chính mình trong quá trình yêu thương bất cứ ai.
Bàng hoàng thật, lí trí nhận ra rồi: nhiệm vụ của nó. Nó phải luôn tỉnh táo để bảo vệ trái tim khỏi những tổn thương. Mắt tôi đã không còn mù trước những điều tôi không muốn thấy.
Kìa, có phải mẹ tôi đấy không? Người đàn bà mang theo một trái tim vừa thương vừa hận với các con mình và bất cứ ai trong đời vì chính bà cũng không đủ nhận thức để tự hòa giải với bản thân? Nào đâu phải lỗi tại tôi cơ chứ, khi tôi chỉ cố yêu thương bà theo bản năng của một đứa trẻ, cố hết sức để được bà vỗ về để đổi lại là sự căm giận trong từng lời chỉ trích vì tình mẫu tử của bà cũng theo bản năng, còn tôi là sản phẩm của một cuộc hôn nhân mà người trong cuộc chưa sẵn sàng cho việc coi sóc một gia đình?
Tôi đã thôi không còn đổ lỗi cho chính mình. Đối mặt với quá khứ, chấp nhận rằng bản thân là một điều kì diệu. Tôi và quá khứ đã làm bạn với nhau, tôi bắt tay cùng nó và trao đi những cái ôm. Tôi đóng cánh cửa lòng mình lại để trái tim nói xem nó muốn gì. Nó bảo tôi: “Mở cửa ra, cho những người bị mẹ cậu căm ghét chỉ vì có được tình yêu thương của cậu khi bà không ở đó. Ôm ấp họ đi, những người dù không máu mủ ruột già gì với cậu nhưng yêu cậu bất chấp cậu là ai. Hãy cứ rơi nước mắt, đừng sợ một ngày không nhìn thấy được bằng mắt nữa chỉ vì khóc nhiều. Cậu có thể cảm nhận được những điều chân thật nhất, khi giữ cho tôi còn đập.”
Còn mẹ tôi, nếu một ngày mẹ hiểu rằng tôi là một con người chứ không phải vật sở hữu để bà trút hết những oán trách và đặt hết những kì vọng, tôi sẽ đưa cho bà chiếc chìa khóa mở cửa lòng những đứa con của mình. Đến lúc đó, bà nên đi gặp Cố Thành một chuyến[4].
[1] “Có những người đã chết ở tuổi 25 nhưng đến tuổi 75 mới được chôn cất.” (Benjamin Franklin).
[2] “Sau này, tôi nghe ai đó phân biệt tình yêu: yêu bằng lí trí và yêu bằng con tim. […] Và con tim, như lịch sử nhân loại đã chỉ ra, lắm khi vượt đèn đỏ hoặc đi vào đường một chiều. Bởi cũng như con người, con tim luôn có những giới hạn. Nó cũng đầy rẫy những lỗi lầm… Nhưng cho dù như vậy, lỗi lầm của con tim là loại lỗi lầm đáng tha thứ nhất trong các loại lỗi lầm mà con người mắc phải.” (Ngày xưa có một chuyện tình, Nguyễn Nhật Ánh).
[3] “Sống là một thứ bổn phận trời dúi vào tay, cầm thì khổ mà không cầm thì áy náy.” (Sông, Nguyễn Ngọc Tư).
[4] “Con hẻm nhỏ
Quanh co, lại hun hút
Chẳng có cửa chính
Chẳng có cửa sổ
Tôi dùng chiếc chìa khóa cũ
Gõ lên lớp tường dày kia.”
(Con hẻm nhỏ, Cố Thành)
Bình luận
Chưa có bình luận