NĂM 2133-2135 (5)


Nhưng họ không biết. Họ không bao giờ biết. Ngày hôm y, mt phn nào đó trong tôi đã chết đi mãi mãi.


Bức họa để đời


“Giờ thì tạm quên nó đi, sau này cậu sẽ làm việc ở đây.” Cậu nói một cách vui vẻ, đứng dậy và đi về phía bức tranh treo tường được phủ lụa cuối phòng.

Tôi mau chóng theo sau cậu, vừa đi vừa quan sát một lượt quanh phòng. Tôi đoán Richard Campbell là một người khá kỹ tính và khó thể quen với sự thay đổi, vậy nên nội thất ở các phòng luôn được thiết kế và bố trí theo một kiểu thống nhất. Bàn làm việc được đặt ngay ngắn ở góc phải, gần cửa ra vào. Phía sau là bức tường được trang bị một tủ sách vừa phải, lưu trữ nhiều tài liệu và sổ sách chuyên ngành. 

Trên tường đối diện cửa ra vào là một hàng cửa sổ tượng trưng phủ rèm tối màu, được thiết kế với hệ thống LED đặc biệt, mô phỏng ánh nắng mặt trời theo từng khung giờ trong ngày để nhân viên không thấy ngột ngạt nếu ở trong phòng quá lâu. Chỉ khi đứng ở bên trong mới có thể nhìn thấy loại cửa sổ đặc biệt này, còn từ bên ngoài nhìn vào sẽ chỉ thấy một tòa nhà bằng thép kiên cố không một kẽ hở. 

Giữa phòng là bộ bàn ghế sô pha được thiết kế tối giản nhằm đón tiếp thành viên cấp cao hoặc các đồng nghiệp đến trao đổi công việc. Bên trái cửa ra vào là nơi đặt các thiết bị hỗ trợ. Máy móc và đồ dùng điện tử được sắp xếp ngăn nắp, đánh dấu bằng các ký hiệu riêng. Những màn hình giám sát cỡ lớn để dọc hai bên tường, cùng với bảng điều khiển thông minh được tích hợp để giải quyết vấn đề từ xa. Tuy mọi vị trí trong căn phòng đều được tận dụng tối đa, nhưng cách bày trí khéo léo đã khiến không gian bớt đi cảm giác ngột ngạt. 

Trên bức tường đối diện bàn làm việc là một tấm tranh lớn được phủ vải lụa chống bụi. Đây cũng là điểm khác biệt lớn nhất so với những căn phòng tôi từng ghé qua, bởi một số phòng sẽ để tường trơn, hoặc một số khác sẽ bổ sung thêm tủ sách hay vật dụng hỗ trợ công việc. Nếu ngồi ở bàn, ánh mắt sẽ luôn vô thức dừng lại nơi đó mỗi khi nghỉ tay. Một bức tranh bí ẩn được đặt ở vị trí dễ gây chú ý nhất khiến tôi không thể không tò mò. 

Tôi nhìn quanh phòng một lần nữa, khẽ hỏi. “Ngoài bố tôi ra thì không có ai từng làm việc ở đây nữa sao?”

“Không.” Cậu lắc đầu. “Những gì liên quan đến bố cậu, bố tớ đều giữ rất kỹ.”

Cậu nói, Richard Campbell đã luôn khóa kín cửa căn phòng này từ khi bố tôi không còn đến trụ sở. Tất cả mọi vật dụng bên trong, đến cả cách bày trí căn phòng theo sở thích của bố cũng được giữ nguyên như thể ông chưa bao giờ vắng mặt. Tầm nửa tháng, Viện trưởng sẽ cho người đến quét dọn để đảm bảo căn phòng luôn trong trạng thái sạch sẽ.

Tôi lặng lẽ nhìn quanh, nơi mọi ngóc ngách dường như vẫn còn đọng lại chút ấm áp của bố mình. Tôi có cảm giác ánh sáng nhàn nhạt trong không gian lặng thinh ấy vẫn như ngày nào, mọi thứ vẫn không thay đổi. Một cảm giác quen thuộc trào dâng đến lạ thường. 

Bố tôi là một người kín đáo và trầm lặng, lúc nào cũng luôn cẩn thận gìn giữ mọi thứ của riêng mình, đặc biệt là những công việc bên trong trụ sở. Tôi từng nghĩ căn phòng này cũng như bao căn phòng bình thường khác, chỉ đơn giản là nơi làm việc. Nhưng dường như có gì đó đặc biệt và sâu sắc hơn đang âm thầm hiện hữu. 

Tylar đến gần bức tranh, nhẹ nhàng kéo tấm lụa phủ xuống. Bức tranh hiện ra trước mắt khiến tôi không khỏi kinh ngạc. 

Đó là một bức ảnh được phóng lớn và đóng khung cẩn thận. Tôi nhớ mình từng nhìn thấy nó không dưới mười lần trên bàn làm việc của bố tôi ở London cách đây hơn hai mươi năm. Hai người đàn ông đứng cạnh nhau, mặc đồng phục tốt nghiệp của một ngôi trường đại học danh giá bậc nhất nước Anh đang nở nụ cười tự tin. Một người là bố tôi với vẻ mặt rạng rỡ đến kỳ lạ mà tôi chưa từng được nhìn thấy lần nào trước đó. Người còn lại cao hơn bố một chút, gương mặt quen thuộc của đối phương khiến tôi sững người trong khoảnh khắc, rồi quay sang Tylar để xác nhận lại. 

“Đằng đó… là bố cậu với bố tôi nhỉ?” Tôi chỉ vào bức ảnh lớn treo trên tường. Và, cậu khẽ gật đầu.

Tôi biết mối quan hệ giữa cả hai rất tốt, nhưng không nghĩ là bố sẽ trưng bày một tấm ảnh to lớn thế này ngay giữa phòng làm việc. Tôi nhẩm thầm trong đầu, tính lại mốc thời gian cụ thể bố đã nói cách đây nhiều năm. Năm 2076. Chính xác là vào năm 2076 tại London, trong khuôn viên trường đại học cũ mà cả hai từng theo học. 

“Cậu giống Viện trưởng thật đấy…” Tôi nói thầm.

Cậu cười khẽ. “Cậu cũng giống Tiến sĩ Albert mà…” 

Tôi gật đầu. Chuyện đó tôi không phủ nhận được. Mọi người đều nói tôi có vẻ ngoài giống bố, hiển nhiên tôi cũng tự nhận thấy được nếu so sánh ảnh mình với ảnh bố ngày xưa. Đôi mắt xanh lục đặc trưng – được di truyền từ khu vực có sự ảnh hưởng của nền văn minh Celtic – ánh màu rêu nhẹ của những vách đá ven biển vùng Cornwall. Dáng người cao gầy nhưng không hề yếu ớt. Tóc vàng xoăn tựa ánh nắng chiều tà cùng màu da trung bình – không quá sáng, cũng không quá sẫm – là những đặc điểm tương đồng dễ thấy nhất giữa hai bố con.

“Mọi chuyện cứ như được sắp đặt sẵn vậy…” Tôi quay sang nhìn cậu.

“Sắp đặt? Chuyện tớ và cậu quen biết nhau sao?” Cậu hỏi, dường như chưa nắm bắt được vấn đề.

Tôi tiếp tục gật đầu, rồi lại nhìn vào bức ảnh. Có thứ cảm xúc kỳ lạ nào đó trào dâng trong lòng nhưng không thể lý giải. Dường như bức ảnh đang cố nhắc cho tôi nhớ về điều gì đó, nhưng tôi không tài nào nhớ được. 

Richard Campbell và bố trong bức ảnh tầm khoảng hai mươi bảy, à nghe đâu Viện trưởng kém bố hai tuổi nhưng được đặt cách học vượt với các khóa trên. Và tôi với Tylar thời điểm này đều tròn ba mươi. Khoảng cách tuổi giữa hai bên không chênh lệch quá nhiều khiến tôi có cảm giác như đây là bức ảnh của mình và Tylar chứ chẳng phải của bố. 

“Cũng đúng,” Cậu nói. “Vì bố tớ và bố cậu từng là bạn bè, nên ít nhiều tớ cũng bị ảnh hưởng theo mối quan hệ đó. Khi gặp cậu, tớ thấy rất quen thuộc. Dù cậu không phải Albert, nhưng gương mặt cậu hay khiến tớ nhớ lại những ký ức mờ nhạt. Không chỉ tớ, mà Doris cũng vậy. Đó là cảm xúc chung của bản sao, nhỉ?”

Cậu đáp lại một tràng, rồi nhìn tôi, chờ đợi lời hồi âm. Tôi im lặng. Cậu bị ảnh hưởng theo mối quan hệ đó, tôi có thể hiểu. Nhưng điều kỳ lạ là tôi cũng bị ảnh hưởng theo mối quan hệ của bố và Henry. Đôi khi tôi thấy mình mâu thuẫn cực độ cũng vì bản thân không biết cảm xúc thật sự của mình dành cho gã đàn ông xa lạ kia là gì. Gọi là thù hận thì chưa đủ, nhưng để tha thứ thì lại không bao giờ. Thật khó hiểu. 

“Không… không biết.” Tôi lắc đầu. “Mẹ tôi nói, có những bản sao sẽ có cùng ký ức với nguyên thể, nhưng cũng có những bản sao sẽ không nhớ được gì.”

“Mẹ cậu á? Không phải bố cậu nói sao?”

Tylar nhìn tôi bằng ánh mắt tò mò. Tôi có thể cảm nhận được chút bối rối nhỏ nhặt từ cậu, như thể cậu không hiểu vì sao tôi lại chọn tin tưởng lời mẹ nói, trong khi ở trường hợp đó, bố có vẻ là người đáng tin cậy nhiều hơn. 

“Có, nhưng bố không giải thích rõ ràng như mẹ, nên tôi vẫn nhớ lời bà ấy nói hơn.”

Khi nhắc đến mẹ, lòng tôi luôn nảy lên những cảm xúc lạ thường. Dù bố luôn ở bên cạnh và là người tôi hiểu rõ nhất, nhưng mẹ luôn khiến tôi có cảm giác như mình nên phải ghi nhớ thật rõ những lời bà dặn. Bà là người duy nhất mang lại cho tôi cảm giác bình yên, được chở che và được hạnh phúc, dù ngày tháng đó ngắn ngủi tới mức tôi chẳng còn nhớ rõ được gì. 

Không khác gì cậu, đôi lúc tôi vẫn thấy thắc mắc vì sao mẹ lại hiểu rõ những chuyện thế này, nhưng tôi cũng im lặng cho qua vì nghĩ bố đã kể cho mẹ nghe ở thời điểm nào đó. Trong gia đình, bố luôn là người hiểu và nắm giữ tất cả mọi bí mật, cả về công việc lẫn cuộc sống. Vậy nên, ít nhiều bố phải chia sẻ với mẹ vì bà là người duy nhất ông có thể đặt niềm tin tuyệt đối và sẽ chẳng bao giờ bỏ rơi ông. Thế nhưng, càng cố ôm suy nghĩ như thế, lòng tôi lại càng hoang mang hơn bội phần. S tht là b không thích m. Tôi biết. Dường như tôi chỉ đang cố tìm lý do để bao biện cho sự thật đau lòng mình luôn muốn né tránh mà thôi. 

“Ừ, mẹ cậu nói đúng.” Cậu gật đầu. “Và các bản sao không bị phụ thuộc vào nguyên thể đó, lúc nào cũng có cuộc sống dễ chịu hơn phần còn lại.”

“Dễ chịu?”

Cậu tiếp tục gật đầu. “Ngay cả con người cũng không muốn sống theo ý người khác mà? Cậu đó.” Cậu chỉ vào tôi, nói tiếp. “Cậu không muốn sống cuộc đời như bố cậu thì bản sao cũng vậy. So với việc phải sống theo ý người khác và sống vì người khác, cuộc sống tự do vẫn tốt hơn nhiều.”

Tôi thấy trong mắt cậu thoáng hiện lên một chút đăm chiêu, hệt như đang nghĩ đến cuộc sống hiện tại của chính bản thân mình. Cái cách cậu nói về tự do, về cuộc sống không bị ràng buộc bởi người khác nghe có vẻ đơn giản, nhưng lại là chuyện mà hiếm ai làm được. 

“Vậy nên… cậu mới muốn trả tự do cho Doris?”

“Không.” Cậu lắc đầu. “Doris phụ thuộc vào nguyên thể nhiều hơn những bản sao khác. Tớ nghĩ là cậu ấy cũng khó thể tự do sau khi rời khỏi nơi này. Nhưng thay vì cứ nhốt cậu ấy ở đây đến lúc chết đi, tớ vẫn muốn cậu ấy ngắm nhìn thế giới một lần nữa. Và đó cũng là điều duy nhất tớ có thể làm để chuộc lỗi.”

Thật khó để hình dung ra suy nghĩ thật sự của cậu. Có gì đó giống như chân thành, nhưng cũng đầy tiếc nuối. Cậu luôn muốn Doris được tự do, và giờ đây cậu nói rằng sẽ tốt hơn nếu anh ta có được cơ hội để nhìn ngắm thế giới một lần nữa, dù biết rằng điều đó có thể chỉ là một giấc mơ không thể kéo dài lâu. Doris không thể cứ sống mãi trong phòng giam thép đó suốt đời, cậu luôn nói như vậy, và tôi cũng hiểu cậu luôn muốn biến nó thành hiện thực. 

Tôi hiểu cho hy vọng của cậu, và hiểu luôn cả lý do của cậu. Dù chưa bao giờ muốn đặt mình vào hoàn cảnh của Doris hay phải chịu đựng cảm giác bị giam cầm như những bản sao khác đang phải trải qua, nhưng tôi hiểu cái cảm giác phải sống vì “niềm tin” của người khác khó khăn như thế nào. 

“Chuộc lỗi? Thay cho Viện trưởng à?” Tôi hỏi.

“Đúng vậy.” Cậu giải thích. “Cũng như bố cậu, Henry là người chiến hữu mà bố tớ coi trọng nhất. Vì một sai lầm mà bố tớ đã đẩy người đó vào nguy hiểm, nên tớ muốn thay bố chuộc lỗi với Doris. Đôi khi, nhớ lại quá khứ cũng tốt mà…”

Câu nói của cậu khiến tôi phải ngừng lại để suy nghĩ đôi chút, như để hiểu rõ hơn về những gì cậu thật sự muốn thể hiện. Lý do cậu muốn giúp Doris – để tự do hay để chuộc lỗi – không chỉ vì tình nghĩa giữa cậu và Richard Campbell, mà còn vì mối quan hệ kỳ lạ giữa những quá khứ chồng chéo lên nhau trước đó. Cậu nói, quá khứ của Viện trưởng cũng là quá khứ của cậu. Vậy nên cậu có trách nhiệm phải giải quyết cả những vấn đề từng xảy ra trong quá khứ đó. Cậu không chỉ là người tiếp bước, mà còn phải sống cho “chính mình”, cho quá khứ mà “bản thân” không muốn đối mặt. Có lẽ, mối liên kết bất đắc dĩ trong quá khứ của bản sao và nguyên thể, đôi khi không thể dứt bỏ dễ dàng. 

“Chuyện này bất ngờ thật đấy.” Tôi nhìn cậu. “Vậy, cậu có biết người tên Henry đó vì sao lại chết không? À, tôi biết ông ta là tội phạm bị truy nã toàn cầu, nhưng phải có gì thì ông ta mới trở thành tội phạm chứ?”

Cậu nhìn tôi, nhíu mày ngẫm nghĩ một lúc lâu. “Henry… đã đắc tội với chính phủ Phần Lan, phải không nhỉ?” Cậu nói một cách mơ hồ. “Bố tớ từng nói điều này bằng rất nhiều từ ngữ tớ không hiểu được. Đợi tớ chút.”

Cậu đưa tay vỗ nhẹ vào đầu, cố nhớ lại ký ức ngày trước. Lòng tôi dâng lên cảm giác bồn chồn đến khó chịu, nhưng tôi vẫn im lặng để đợi cậu trả lời. Dường như việc lục lại ký ức của nguyên thể luôn là một thử thách khó khăn với những bản sao, kể cả đối phương có là một bản sao hoàn hảo.

Tôi nhìn bố với gương mặt rạng rỡ trong tấm ảnh sớm đã ngả màu, đột nhiên muốn hỏi ông ấy tất cả những gì mình thắc mắc. Tôi nghĩ bố sẽ biết rõ lý do, bởi bố đã lựa chọn từ bỏ mọi thứ để chạy trốn cùng tên tội phạm khét tiếng đó. Phần Lan? Rốt cuộc Henry đã làm gì để rồi bị chính phủ truy nã gắt gao đến vậy? Một phần trong tôi muốn tin rằng, ngoài những tội lỗi hiển nhiên, có lẽ hắn ta cũng có lý do riêng, hoặc tệ hơn nữa là bị ai đó dồn vào đường cùng. Nhưng một phần khác, cái phần đầy rẫy cảm xúc hoài nghi và cay đắng, lại cho rằng hắn ta chỉ là một kẻ liều mạng không biết điểm dừng, thậm chí sẵn sàng vứt bỏ tất cả để đạt được mục đích.

“Phải rồi.” Cậu bất chợt la lên. “Sát thủ, tham nhũng và… Tớ chỉ nhớ vậy thôi. Nhưng bố nói nhiều lắm, khi nào nhớ ra tiếp thì tớ lại nói cậu nghe nhé?”

 Sát thủ. Tham nhũng. Là ý gì nhỉ?

Câu trả lời của cậu khiến tôi càng thêm rối bời hơn bao giờ hết. Sát thủ là những kẻ giết người không kiêng nể, trong khi tham nhũng lại là một chiến trường không đổ máu. Tôi cố gắng hình dung ra vai trò của Henry trong cả hai khái niệm, nhưng dường như chúng chẳng hề ăn khớp với nhau. Tôi không phủ nhận rằng, hắn ta có thể đã gây ra những tội ác ghê tởm, nhưng việc bị gán cho cái mác “sát thủ” lẫn “tham nhũng” cùng lúc khiến tôi thấy nghi ngờ. 

Không có bất cứ sách báo hay nền tảng truyền thông nào ghi rõ tội lỗi của Henry dẫn đến kết cục hắn ta bị xử tử. Dù mọi người đều biết Henry là một tên tội phạm vượt ngục, nhưng những việc sai trái mà hắn ta đã làm vẫn luôn là một dấu chấm hỏi lớn mà không ai có thể lý giải. Liệu chính phủ chỉ đang phóng đại những tội ác của Henry để hợp thức hóa bản án công khai? Hay đó thật sự là con người thật của hắn ta – gã đàn ông kỳ lạ mà tôi chưa bao giờ hiểu, trong khi bố thì cực kỳ trân trọng?

“Khó hiểu thật.” Tôi thì thầm. Ánh mắt vẫn dán chặt vào bức ảnh lớn trước mặt. 

“Thôi, đừng nghĩ nữa.” Cậu vỗ vỗ vào vai tôi. “Mau đi xem phòng đi.”

Tôi khẽ gật đầu, cố gắng gạt qua những suy nghĩ rối ren. 

“Hình như phòng này nhỏ hơn phòng cậu nhỉ?” Tôi hỏi.

“À, đương nhiên. Vì tớ là con trai của Viện trưởng nên phải được ưu ái hơn chứ.” Cậu cười.

“Nếu ở thế giới bên ngoài thì cậu thuộc thể loại có “ô dù” khủng khiếp luôn đấy.” Tôi buột miệng nói.

Cậu ngừng lại trong phút chốc, nghiêng đầu nhìn tôi với ánh mắt ngạc nhiên xen lẫn tò mò như vừa bắt gặp một thuật ngữ kỳ lạ. “Ô dù? Nghĩa là gì chứ?” 

“Thì… nghĩ đơn giản là có người trải thảm cho đi đấy. Cả đời không biết một hạt cát có hình dạng thế nào.” Tôi nhún vai, cố giải thích đơn giản nhất có thể.

Tylar không đáp, chỉ lẳng lặng cúi đầu nhìn xuống dưới chân như đang suy nghĩ gì đó. Rồi, cậu lại ngẩng lên, hai mắt hướng thẳng về phía tôi.

“Vậy Tiến sĩ Albert không trải thảm cho cậu đi sao?” Cậu hỏi, giọng điệu nghe như đang tò mò, nhưng dường như cũng có ý trêu chọc.

“Không.” Tôi đáp. “Vì tôi đi đường khác.”

Cậu bày ra vẻ mặt ngơ ngác, nhưng rất nhanh, cậu lại cười. “Hình như không phải vậy đâu…”

Chẳng chờ tôi đáp, cậu nhanh chóng kéo tôi đến bàn làm việc, bảo tôi hãy đợi và bắt đầu lục lọi ngăn kéo. 

“Này,” Cậu đột ngột lên tiếng, giơ lên một tấm ảnh đóng khung gỗ cỡ tầm sổ tay, mặt sau đã bị ố vàng. “Chắc là sản phẩm của cậu nhỉ?”

Tôi xoay tấm ảnh lại. Không phải ảnh, là tranh. Một bức tranh với những nét vẽ non nớt. Tôi không trả lời, chỉ thấy tim mình đập mạnh hơn hẳn, hai tay cũng vô thức siết chặt lấy khung. Tôi có cảm giác như bản thân đang bị kéo về những năm tháng xưa cũ, khi tôi vẫn còn là tên nhóc nổi loạn với cây bút chì màu trong tay cùng khát khao được bố công nhận. 

Những nét vẽ ngây thơ trên tờ giấy bị xé ra từ mặt sau của cuốn vở học chẳng có gì xuất sắc, nhưng tôi vẫn nhớ niềm vui và cả sự quyết tâm mình đã đặt vào từng nét vẽ. Đây là bức tranh tôi vẽ lần đầu tiên vào ngày sinh nhật bố. Khi ấy, tôi chưa quyết tâm sẽ theo ngành Mỹ thuật. Tôi chỉ biết rằng bản thân vẽ tốt hơn tính toán, và tôi yêu cách pha màu hơn việc giải quyết những phương trình đột biến gen. Nhưng bố tôi không nghĩ như vậy.

 Tôi không nhớ rõ những lời bố nói khi đó, nhưng tôi vẫn còn nhớ như in cái nhìn đầy thất vọng khi ông cầm lấy bức tranh, rồi cơn giận dữ đột ngột bùng nổ. Bố đã vò nát nó và vứt ngay vào thùng rác mà chẳng thèm nhìn lại một lần nào. 

Vậy mà bây giờ, nó lại xuất hiện ở đây, ngay bên trong phòng làm việc luôn được đóng kín suốt nhiều năm dài dẵng. Tôi vẫn thấy những vết nhăn nhàn nhạt trên mặt giấy dù đã được đóng khung cẩn thận.

“Cái này là do bố tôi mang đến sao?” Tôi khẽ hỏi với giọng run run.

“Có vẻ thế.” Cậu nói, trong khi hai mắt vẫn dán chặt vào bức tranh. “Tớ không gặp bố cậu, cũng không được đến đây. Chỉ khi ông ấy chính thức rời trụ sở, tớ mới được bố cho phép đến. Bố nói Albert đã đặt cái này ở đây.” Cậu chỉ tay xuống góc phải bàn. “Nhưng vì ông ấy đã rời đi nên bố tớ đã bỏ nó vào ngăn kéo để không bám bụi.”

Tôi lặng người. B đã đt bc tranh đây. Tôi nhìn theo hướng tay cậu, rồi thấy trong lòng dần trở nên đau đớn. Tôi không hiểu. Tại sao bố lại để bức tranh ngay đó, ở vị trí còn dễ thấy hơn cả bức ảnh treo tường đằng kia? 

Tôi cố hình dung ra cảnh tượng bố ngồi ở bàn làm việc, ánh mắt lướt qua bức tranh ấy mỗi ngày. Bố đã nghĩ gì khi nhìn thấy nó? Là thất vọng? Hay là tiếc nuối? Tôi gắng nuốt xuống cảm giác nghẹn ngào, nhưng ánh mắt vẫn không thể rời khỏi góc bàn đó. Có lẽ, bố chưa bao giờ muốn nói ra, cũng chưa từng biết cách thể hiện cảm xúc thật của mình, nhưng tôi vẫn đoán được nỗi lòng của bố qua những hành động ấm áp vụng về mà ông thể hiện.

Tôi miết nhẹ khung gỗ, cảm nhận những vệt nhám mờ trên bề mặt. Tôi thấy giận dữ vì bố cứ mãi im lặng và giữ mọi thứ cho riêng mình, nhưng cảm giác ấy cũng nhanh chóng tan đi. Đổi lại là một sự an ủi nhẹ nhàng, rằng dẫu cho có bao nhiêu bí mật còn giấu kín, hay trong sự im lặng tột cùng đã đẩy mối quan hệ này ngày một xa hơn, thì trong mắt bố, ông chưa bao giờ coi tôi như một đứa con chẳng quan trọng. Nhưng cũng chính điều đó đã khiến tôi băn khoăn. Vì bố đã để bức tranh ở lại nơi này, trong căn phòng khép kín mà có lẽ nếu tôi không đến, nó sẽ luôn khóa lại vĩnh viễn.

“Cậu nói bố tôi đã rời trụ sở à?”

“Cậu không biết sao?” Cậu hỏi, và tôi khẽ lắc đầu. “Khi nào nhỉ? Hình như là năm 2123, bố cậu đã nộp đơn rút khỏi mọi dự án để đến sống ở Helsinki.”

Năm 2123 cũng là thời điểm bố đuổi tôi ra khỏi nhà vì bản thân nói sẽ kiên quyết theo đuổi ngành Mỹ thuật. Khi ấy tôi tròn hai mươi tuổi, vừa bỏ học tại Học viện Di truyền học Northfield sau khi nhận được thông báo trúng tuyển của Đại học Mỹ thuật London. Đó là lúc bố phát hiện ra tôi đã âm thầm rời khỏi con đường mà ông ấy vạch sẵn, chấp nhận từ bỏ tương lai đang rộng mở chỉ để theo đuổi cuộc sống tự do mà bản thân khao khát. Tôi biết mình vẫn luôn là một tên nhóc bướng bỉnh thích khẳng định bản thân, bất chấp sự phản đối kịch liệt. Vậy nên tôi đã ngu ngốc gọi cơn giận dữ của bố là “ân huệ” và chạy như bay ra khỏi nhà.  

Đó là giai đoạn đầy căng thẳng, và cũng là lần cuối cùng chúng tôi gặp mặt nhau. Tôi nhớ mình đã trở về London làm thủ tục nhập học và bắt đầu một cuộc sống tự lập. Tôi lang thang từ nơi này đến nơi khác, gặp được vô số người, và làm đủ mọi công việc để duy trì đam mê hội họa. 

Hai năm trôi nhanh đến mức tôi chẳng nhớ rõ mình đã trải qua cuộc sống cô đơn ấy như thế nào khi không có người thân bên cạnh. Và một ngày cuối đông năm 2125, chú Fred đã gọi điện cho tôi, nói rằng hãy trở về Edinburgh ngay lập tức vì bố tôi mất rồi. Cả thế giới đầy màu sắc và hy vọng của tôi dần sụp đổ trong khoảnh khắc ấy. Tôi không nhớ rõ mình đã phản ứng với cú sốc đó ra sao, nhưng cái cảm giác trống rỗng lạ lùng đã luôn bám riết lấy tôi kể từ ngày hôm ấy. 

Khi tôi trở về Edinburgh, mọi thứ đã muộn màng. Người ta đặt tro cốt của bố vào tay tôi và bảo tôi hãy nhìn ông lần cuối. Hai tay tôi run rẩy không thôi, lồng ngực cũng nhói lên từng hồi đầy khó chịu. Nhưng tôi không khóc. Tôi đã không thể rơi bất cứ giọt nước mắt nào, dù tôi biết rõ đáng ra mình phải khóc. Các đồng nghiệp của bố nhìn tôi với ánh mắt nghi hoặc, và nói rằng tôi bị vô cảm, rằng tôi là một đứa bất hiếu khi không thấy đau buồn. 

Nhưng họ không biết. Họ không bao giờ biết. Ngày hôm y, mt phn nào đó trong tôi đã chết đi mãi mãi. 

“Cậu lại khóc nữa rồi…” Tylar đến trước mặt từ bao giờ, đưa tay lau nhẹ khóe mắt ướt đẫm của tôi và cất tiếng than vãn. “Con người yếu đuối thật đấy.”

Tôi tránh ánh mắt trêu chọc của cậu, vội lùi lại vài bước, giả vờ đánh lạc hướng bằng cách đặt lại bức tranh lên góc bàn. Tylar biết rõ tôi chỉ đang vụng về che giấu những giọt nước mắt bất chợt, nhưng thay vì giả vờ như không biết, cậu lại càng tò mò và quan sát tôi kỹ hơn. Tôi ghét cái sở thích kỳ lạ đó. Thú thật là tôi không muốn ai nhìn thấy mặt yếu đuối của mình, nhưng đôi lúc cảm xúc lại mạnh mẽ đến mức không thể kìm nén nổi. Trước đây, tôi không như thế này.

“Thế cậu không phải con người à?” Tôi cố lấy lại giọng bình tĩnh, đáp. 

“Không, tớ không muốn làm con người đâu.” Cậu lắc đầu một cách vui vẻ. “Cứ như thế này vẫn tốt hơn mà, nhỉ?”

Không tt chút nào. Tôi vừa nghĩ, vừa phải đoán xem ý nghĩa đằng sau câu nói đó là gì. Rốt cuộc thì tốt ở chỗ nào? Vì là một bản sao? Hay vì là một cá thể khác biệt không bị ràng buộc bởi chuẩn mực loài người? Tôi không hiểu. 

Cậu vẫn cười, không có ý định giải thích thêm. Tôi thấy cậu chống tay lên mặt bàn, rồi tựa người lên đấy. 

“Cậu cứ khóc nhè như vậy thì sao tớ dám đưa cậu đến gặp Doris nữa hả?”

“Việc đó thì liên quan gì?” Tôi nhìn cậu với vẻ ngạc nhiên.

“Liên quan chứ,” Cậu đáp ngay. “Lỡ cậu ngất xỉu như hôm trước thì Emily sẽ giết tớ đấy. Cậu không biết hôm đó bà ta đã tức giận và mắng tớ nhiều như thế nào đâu.”

Rồi, cậu xoa xoa gáy, vờ như chẳng để tâm, nhưng ánh mắt cố tình lảng đi nơi khác với vẻ khó chịu đã thay cậu nói lên tất thảy.

“Cô ấy mắng cậu nhiều lắm à?” 

“Ừ, nghe nhức hết cả đầu.” Cậu nói với giọng bâng quơ. “Nhưng tớ không quan tâm. Bà ta nghĩ mình là ai chứ? Thật phiền phức.”

Không khó để nhận ra vẻ bực tức trong câu nói ấy, dù cậu luôn cố gắng che đậy bằng thái độ hờ hững. Tôi im lặng trong thoáng chốc, không biết nên đáp lại thế nào cho phải. Tôi biết mối quan hệ giữa cậu và cô Emily không tốt, cũng như cả hai luôn cố giữ khoảng cách an toàn để xích mích không thể xảy ra. Nhưng bằng một cách nào đó – phải gọi là thần kỳ – hai người vẫn luôn có lý do để cự cãi, ngay cả khi mồi lửa chỉ là một vấn đề nhỏ nhặt.

Tylar thở hắt ra, một tay vẫn xoa gáy như thói quen mỗi khi khó chịu. “Tớ rất ghét bị người khác trách mắng, nhất là với những kẻ kém cỏi hơn, nghe cứ như đang hạ thấp giá trị của mình xuống vậy…” 

Tôi vẫn tiếp tục giữ im lặng. Dường như tôi hiểu được nỗi bất mãn to lớn trong lòng cậu. Nếu là tôi, tôi cũng không thích nghe người khác trách mắng, dù bản thân có làm sai đi nữa. Nhưng trong mắt cậu, hình như điều này không chỉ nằm ở việc khó chịu hay không thích, mà nó nặng nề hơn, giống như bị xúc phạm. Tôi nhớ lại khoảnh khắc cậu đứng giữa hội trường và các đồng nghiệp nhìn chằm chằm vào cậu với ánh mắt “biết nói”, từ đầu đến cuối, cậu vẫn giữ vững thái độ điềm tĩnh, nhưng tôi biết sự khó chịu đang bủa vây lấy cậu là thứ không dễ dàng diễn tả bằng lời. 

Tôi nghĩ, cậu không giỏi che giấu cảm xúc của mình. Ít nhất thì điều này đúng khi cậu đứng trước mặt tôi. Tôi thấy rõ trong từng lời cậu nói, từng thái độ cậu thể hiện ra – khi lòng tự trọng bị tổn thương – không phải vì bản thân làm sai, mà vì cậu thật sự căm ghét cái cảm giác bị người khác coi thường. 

“Cu ghét đến vy sao? Tôi muốn hỏi, nhưng lại thôi. Vì tôi biết câu trả lời của cậu là gì, ngay cả khi cậu không cần nói. Ghét thay cái tính tọc mạch này. Tôi có cảm giác như mình chỉ đang muốn buộc cậu phải lặp lại một sự thật rõ ràng mà thôi. 

Tôi không thể phủ nhận rằng những lời cậu nói vẫn có phần đúng. Ai cũng ghét bị chỉ trích, thậm chí là bị khinh thường, nhưng khác với cậu, tôi đã quen với sự im lặng và giả vờ cho qua. Cái cảm giác đó cũng khó chịu khủng khiếp, nhưng có lẽ sẽ đỡ hơn việc tranh cãi vô ích rồi đẩy mọi chuyện vào thế nan giải. 

Trong phút chốc, Tylar nhanh chóng nhận ra sự khác thường. Cậu hạ tay khỏi gáy, khẽ nghiêng đầu, ánh mắt chợt trở nên sắc bén như muốn đọc thấu những suy nghĩ trong tôi. “Tớ nói gì sai à?”

“Sao cậu lại hỏi thế?” Tôi vội vàng đảo mắt sang nơi khác, vờ như chẳng nhìn thấy gương mặt đang khó hiểu của cậu. 

“Cậu đã im lặng mà, ít nhất thì cũng nên đáp lại gì đó để tớ biết là cậu vẫn đang nghe chứ?” 

Tôi khẽ cười trừ, vẫn không biết phải đáp lại ra sao. Sự thật là tôi vẫn đang nghe, nghe rất rõ là đằng khác, nhưng thật khó để trả lời khi đến cả tôi cũng chẳng biết việc này có cần thiết hay không. 

“À thì… tôi xin lỗi…”

“Tớ không nghĩ việc này sai đâu. Tớ chỉ hỏi thôi mà…”

Cậu nhún vai, ánh mắt đã dịu hơn so với lúc đầu, nhưng vẫn còn chút gì đó giống như thắc mắc. 

“Từ nhỏ đến giờ, cậu là người xin lỗi tớ nhiều nhất đấy.”

Lời nói ấy khiến tôi không khỏi bất ngờ. Tôi đã xin lỗi cậu bao nhiêu lần rồi? Chẳng biết nữa. Những lời xin lỗi cứ vô thức bật ra khỏi miệng như một thói quen mỗi khi phạm lỗi khiến tôi không còn bận tâm xem người ta sẽ nghĩ về nó như thế nào. Tôi nghĩ so với việc phải chờ đợi xem đối phương có chấp nhận hay không, thì việc xoa dịu nỗi áy náy trong lòng vẫn nên là điều quan trọng hơn hẳn. Nhưng giờ đây, khi nghe cậu nói như vậy, tôi thấy lòng mình chùng xuống một cách lạ lẫm.

Phần nào đó trong tôi cảm thấy vừa áy náy, vừa xót xa. Tôi hiểu ý nghĩa đằng sau câu nói đó, rằng trong mắt một số người, việc gây ra lỗi lầm với bản sao là vấn đề không quá nghiêm trọng và cũng chẳng đáng để họ phải đưa ra lời xin lỗi đàng hoàng. Dù Tylar là một con người hoàn chỉnh với đầy đủ tư duy và cảm xúc, nhưng sự khác biệt giữa chúng tôi vẫn rất rõ ràng. Cậu nghĩ rằng lời xin lỗi không cần thiết, vậy nên cậu chưa từng phải nói ra lời xin lỗi với ai và cũng chẳng cần ai phải hành xử như thế với cậu. 

Cậu có thể suy nghĩ, có thể nhìn nhận và có thể bày tỏ cảm xúc giống như một con người, nhưng cậu sẽ không thật sự sống như một con người. Bởi cậu thiếu đi khả năng tự nhận thức và sửa chữa sai lầm – của mình lẫn của người khác – điều mà tôi, và rất nhiều con người khác ở thế giới ngoài kia phải đối diện mỗi ngày. 

“Không đâu, từ giờ cậu phải học cách xin lỗi người khác và yêu cầu họ phải xin lỗi mình nếu một trong hai phạm lỗi.” 

Tôi nói với giọng nghiêm túc. Trái lại, Tylar chỉ trợn tròn mắt ngạc nhiên đến độ không nói nên lời. Tôi nhắc cho cậu nhớ về cuộc trò chuyện ở phòng y tế, khi cậu hỏi tôi cách để hành xử đúng mực. Vì đã dõng dạc tuyên bố sẽ chỉ dạy cho cậu tất cả nên tôi sẽ không tiếp tục nhắm mắt làm ngơ. Tôi có thể thông cảm cho việc cậu không nghĩ nhiều (hoặc xem nhẹ) về lời xin lỗi, nhưng tôi không thể lấy nó làm lý do để mặc cậu hành xử theo ý mình. 

“Tại sao tớ phải xin lỗi chứ? Tớ là…” 

“Là ai không quan trọng.” Tôi nhanh chóng ngắt lời. Tôi biết cậu sẽ nói gì tiếp theo mà, thưa Vin trưởng Tylar. “Xin lỗi là phép tắc cơ bản của một con người, nếu cậu không làm được thì sẽ không thể nói chuyện với chúng tôi đâu.”

Tôi biết cậu không giống như những người khác, rằng cậu không cần thiết phải tuân theo những nguyên tắc xã hội ấy. Vì dẫu cậu có gây ra lỗi lầm khó chấp nhận nào đi nữa, Richard Campbell vẫn sẽ dung túng cho cậu. Nhưng tôi không muốn nghe những lời đó. Cái tên có “ô dù” khng khiếp này. Tôi chỉ muốn cậu sẽ thật sự tồn tại như chúng tôi. Chính miệng cậu nói cậu muốn làm bạn với tôi mà? Rõ ràng là tôi chỉ đang muốn cậu được “sống” như một con người đúng nghĩa mà thôi.

Tôi không muốn mọi chuyện chỉ dừng lại ở việc tôi phải chấp nhận những gì cậu đang làm, bởi nó đã sai lệch hoàn toàn. Tôi cần cậu thay đổi, cần cậu học cách đối diện với những điều cơ bản trong quan hệ con người, không chỉ vì cậu là bạn tôi, mà còn vì chính bản thân cậu – người sẽ trở thành lãnh đạo của những con người thuộc tổ chức và cả những “con cừu” trong tương lai.

“Tôi ghét mấy người làm sai mà không chịu nhận lỗi, kể cả cậu cũng không ngoại lệ.”

“Tớ hiểu rồi.” Cậu gật đầu nhẹ như đã hiểu, nhưng cũng có vẻ gì đó giống như không bằng lòng.

“Nếu cậu không thích thì đừng làm. Tôi chỉ hướng dẫn chứ không ép buộc cậu phải nghe theo.”

“Không, tớ sẽ làm mà. Chỉ cần cậu dạy thì tớ sẽ học hết.”

Câu trả lời mang theo chút nhẹ nhàng không do dự, nhưng tôi biết đằng sau nó còn ẩn chứa một cảm xúc gần như bất mãn không thể nói ra. Cậu luôn thể hiện cho người khác thấy rằng mình vẫn ổn, thật ra cậu chẳng ổn một chút nào. Ánh mắt lảng tránh và đôi bàn tay thon dài khẽ siết chặt, tôi biết là cậu đang cố giãi bày nỗi khó chịu một cách âm thầm đầy vụng về đến thế. 

Tôi biết tt c. Tôi biết cậu chỉ đang tự nhủ rằng điều đó không cần thiết, rằng cậu đã quen sống theo cách riêng của mình và cũng chẳng cần phải thay đổi vì ai hay vì bất cứ lý do nào. Nhưng có lẽ, đâu đó trong lòng cậu vẫn muốn thử chấp nhận điều này, không phải vì cậu muốn trở thành một con người đúng nghĩa, mà vì sự tin tưởng cậu đã dành cho tôi.

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout