PHẦN MỞ ĐẦU (2)


Khi một tế bào được tách ra từ nguyên thể sẽ kéo một phần ký ức trong họ đi theo.


ISH


Viện Nghiên cứu khoa học vì con người (ISH) được xây dựng trên một hòn đảo biệt lập ở ngoài khơi Scotland. Năm 2081, Richard Campbell đã mua lại hòn đảo từ tay một tài phiệt gốc Anh và bắt đầu thiết kế Viện nghiên cứu trong mơ, nơi ông ta có thể tiến hành hàng loạt dự án vô nhân đạo. Bên cạnh việc xây dựng cơ sở vật chất hiện đại và tuyển dụng đội ngũ nhà khoa học hàng đầu thế giới, Richard còn thiết lập một chuỗi các phòng thí nghiệm và khu vực nghiên cứu ngầm dưới lòng đất nhằm đảm bảo mọi thí nghiệm sẽ được tiến hành một cách bí mật và không bị can thiệp dưới bất kỳ hình thức nào. 

Có một số nguồn thông tin không chính thống cho rằng, Richard Campbell đã thỏa thuận với một nhóm chính trị gia và tài phiệt quyền lực tại Mỹ để đổi lấy sự bảo vệ tuyệt đối cho ISH không bị đe dọa bởi luật pháp quốc tế. Một số chính trị gia công khai ủng hộ dự án của Richard, ngụy trang nó dưới danh nghĩa “công trình nghiên cứu khoa học vì nhân loại”. Lợi dụng tình hình chính trị bất ổn, các tổ chức ủng hộ ISH khôn khéo đánh vào tâm lý sợ hãi của nhân loại về dịch bệnh, an ninh sinh học và vấn đề dân số. Họ tuyên truyền những nghiên cứu mạo hiểm “kỳ vọng” tại ISH có khả năng đưa nhân loại đến những phát kiến vĩ đại – từ công nghệ nhân bản đến phòng chống bệnh tật và kéo dài tuổi thọ – biến ISH thành biểu tượng của “khoa học công nghệ tiên tiến”, công khai tài trợ và sử dụng quyền lực chính trị để ngăn chặn mọi cuộc điều tra từ UNHRC hay các tổ chức quốc tế khác.

Bước chân lên hòn đảo, cảm giác đầu tiên mà tôi cảm nhận được là sự tĩnh lặng đến áp lực. Một tòa nhà kiên cố nằm trơ trọi giữa trung tâm. Phía đông là vùng đất khô cằn với những vách đá dựng đứng, bên dưới là những con sóng dữ tợn liên tục va vào bờ. Còn phía tây lại là khu rừng rậm rạp, phủ kín bởi những cây sồi và bạch dương xoắn quện trong sương mù. 

“Địa hình ở đây có vẻ khắc nghiệt, chú nhỉ?” Tôi hỏi trong lúc cẩn trọng bước lên những dốc đá.

“Ừ, có một thời điểm, cháu có thể chứng kiến cùng lúc bốn mùa trong năm.”

Có một cảm giác rợn người chạy dọc sống lưng khi tôi nghe chú Fred nói đến viễn cảnh kỳ dị đó. Mùa xuân ấm áp với ánh nắng nhè nhẹ, mùa hè nóng gắt với bầu trời trong xanh, mùa thu ảm đạm với mây xám nặng trĩu và mùa đông buốt giá đan xen qua từng đợt bão tuyết. Không lý nào lại xuất hiện vào cùng một thời điểm.

“Sao lại như vậy được?!”

Chú Fred dừng lại một bước như đang cân nhắc điều gì, rồi đáp. “Hòn đảo này đã trải qua nhiều biến đổi... Những thay đổi chúng ta tạo ra đôi khi để lại hậu quả khôn lường. Ở đây, thiên nhiên cũng giống như con người, đều là “vật tế” cho những cuộc thí nghiệm.”

“À...” Tôi mím chặt môi. “Cháu cứ nghĩ... mọi thí nghiệm đều có giới hạn...”

“Không hẳn. Tài chính là giới hạn của nghiên cứu, và như cháu thấy đấy, ISH luôn nhận được nguồn tài trợ khổng lồ. Trách nhiệm của bọn ta không phải tìm hiểu xem đâu là giới hạn của “vật tế”, mà là phải tận dụng tối đa nguồn lực tài chính kia bằng cách nào.”

Richard Campbell là con trai độc nhất của một tài phiệt có tiếng tăm trong ngành dầu mỏ. Và thậm chí, bản thân ông ta cũng đã luôn gây nên những làn sóng tranh cãi rộng khắp thế giới kể từ khi trưởng thành. Việc sinh ra trong một gia đình có nền tảng tốt cả về kinh tế lẫn chính trị đã giúp Richard có được bước đệm vững chắc khi lấn sân sang lĩnh vực khoa học. Thỏa thuận chỉ là một phần để đảm bảo an toàn cho ISH khỏi tai mắt của chính phủ và ràng buộc những kẻ săn mồi trong ván cờ lợi ích chung. Trên thực tế, doanh nghiệp dầu mỏ ở khu vực Trung Đông mới là nhà tài trợ chính thức cho mọi hoạt động của Viện nghiên cứu. 

Ba từ “vì con người” trong cái tên mà Richard đã đặt, hẳn là vì người giàu và các chính trị gia đã cùng ông ta kết thành phe phái. Trong những dự án mà bố tôi từng tham gia, hay trong những dòng ghi chép ngắn ngủi mà ông để lại, tôi luôn thấy tên tuổi của những nhân vật quen thuộc từng xuất hiện trên báo chí không dưới hai lần. Sẵn sàng chi trả khoản tiền khổng lồ để đổi lấy một hoặc thậm chí nhiều “bản sao” dự phòng cho trường hợp khẩn cấp, đó là cách mà những người giàu có ở thời đại này “chữa bệnh”. 

“Vậy là Viện nghiên cứu đã dùng nguồn tài chính khổng lồ đó để chăm sóc cho những bản sao đúng không ạ?”

“Không hề,” Chú Fred khẽ lắc đầu. “Bọn ta chăm sóc cho những bản sao bằng tiền chu cấp của nguyên thể[1].”

Trong những tài liệu mà bố tôi để lại, chăm sóc bản sao cũng tương tự như việc nuôi dưỡng một đứa trẻ từ thuở sơ sinh đến khi trưởng thành. Đó là giai đoạn vô cùng khó khăn và tốn kém khi các nhà nghiên cứu phải đảm bảo chúng sẽ được phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần. Một số bản sao thuộc trường hợp đặc biệt như Dorry sẽ được ưu ái để con người sinh ra. Phần còn lại sẽ được thực hiện hoàn toàn trong phòng thí nghiệm vì không có đủ nguồn nhân lực để phục vụ cho việc nhân bản. Chính vì vậy mà xác suất thành công khá thấp, và bản sao cũng dễ gặp những dị tật bất thường. 

Theo quy định của ISH, một bản sao sẽ bắt đầu thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng đã ký kết với nguyên thể sau khi đạt đủ yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng. Tôi không biết Viện nghiên cứu có sử dụng phương pháp can thiệp sinh học nào hay không, nhưng chú Fred nói rằng một số bản sao đã được trả về cho nguyên thể chỉ sau bảy năm chào đời – tương đương với một đứa trẻ bảy tuổi, nhưng thể chất và cơ quan trong cơ thể đã phát triển đạt tiêu chuẩn của người trưởng thành.

“Và vì Dorry không có ai chu cấp nên cháu mới phải đến sao?”

“Đúng vậy, hơn nữa…” Chú Fred thoáng ngập ngừng. “Tâm lý của nó cũng không ổn. Ta nghĩ nếu có một người mang gương mặt giống như Albert xuất hiện, nó sẽ bình tĩnh lại.”

Chú ấy chưa từng nói với tôi về điều này khi còn ở Edinburgh. Nếu biết trước, có lẽ tôi sẽ thay đổi ý định. Những người ở Viện nghiên cứu này – có thể gọi là đồng nghiệp cũ của bố, đều biết rõ Dorry có mối quan hệ như thế nào với ông ấy. Suốt mười năm ròng rã sau khi bố qua đời, hẳn là họ cũng đã hết lòng chăm sóc cho cậu ta đến khi Richard Campbell mất kiên nhẫn và yêu cầu tôi phải đến để gánh vác hậu quả. 

Đúng như lời chú Fred nói, tôi giống bố y đúc và bạn bè của bố cũng luôn công nhận rằng tôi cứ như là bản sao của ông thời trẻ. Nhưng cũng chính điều này lại càng khiến tôi bị so sánh với ông nhiều hơn. Và bây giờ, nếu bảo tôi phải dùng gương mặt này để trấn an Dorry thì thú thật là tôi không làm được.

Khi một tế bào được tách ra từ nguyên thể sẽ kéo một phần ký ức trong họ đi theo. Mẹ đã nói điều này và dặn dò tôi không được quên lãng. Dorry sẽ yêu bố như cái cách mà Henry đã từng. Tôi sẽ luôn ghi nhớ điều này. Và tôi sẽ không bao giờ để gương mặt mình khiến cậu ta nhầm lẫn. 

“Cháu nghĩ phải có gì để che chắn chứ? Giống như mặt nạ hay khẩu trang để chống lây nhiễm và đảm bảo an toàn?”

“Cháu nghĩ đây là nơi dịch bệnh hoành hành sao? Đừng lo lắng về chuyện đó.” Chú Fred cười lớn như thể vừa chứng kiến một trò đùa lố bịch.

“Chán chết!” Tôi than vãn. “Một họa sĩ bị giam giữ trong phòng thí nghiệm thì đâu còn là họa sĩ nữa…”

“Phòng thí nghiệm của ISH không chỉ có mỗi máy móc. Ở đây, cháu sẽ học hỏi được nhiều thứ, và biết đâu cháu sẽ yêu công việc này thì sao?”

Thật khó tin. Bố còn chưa từng nói với tôi những lời này. Bộ não thiên tài mà tôi được thừa hưởng vẫn đang ngủ yên và tôi chưa bao giờ có ý định sẽ đánh thức nó. Nếu tôi chỉ sống với suy nghĩ phải tận dụng tối đa những tài năng nhận được từ người bố thiên tài thì cuộc đời tôi sẽ trở nên vô nghĩa. Tôi đã ý thức được điều này từ hơn mười năm trước, và tôi cũng sẽ không thay đổi quan điểm ngay cả khi đã lựa chọn bước chân lên hòn đảo này. 

“Rồi cháu sẽ thấy, cuộc sống ở đây tốt hơn ngoài kia gấp nhiều lần…” Chú Fred nhìn tôi bằng ánh mắt tinh tường của người đã trải qua tất cả. “Không có nơi nào nuôi dưỡng tài năng của những nhà khoa học hơn ISH. Cháu sẽ có được tất cả trong tay, tiền tài, danh vọng, thậm chí là tuổi thọ[2]. ISH sẽ cho cháu tất cả, miễn là cháu không đi ngược lại với lý tưởng mà chúng ta theo đuổi.”

Tôi biết lý tưởng của ISH là gì, và tôi cũng biết là mình sẽ chẳng bao giờ có thể theo đuổi được. Dù là con trai của một thiên tài – người ta nói rằng tôi được thừa hưởng hoàn toàn năng lực của bố, nhưng quan điểm của tôi và ông không giống nhau. Ông dành cả đời để cống hiến cho khoa học và ISH, trong khi tôi dùng cả tuổi trẻ chỉ để đi đây đi đó và tái hiện lại ký ức qua những bức tranh. Một khi đã đặt chân đến hòn đảo này, tôi sẽ không còn là tôi tự do của thời gian trước. Nghĩa vụ của tôi đã bắt đầu. Chăm sóc Dorry. Bảo vệ thành tựu cả đời của bố. Đó là tất cả.

Tôi sẽ trở thành một tên tội phạm – giống như bố, chú Fred hay bất cứ người nào khác trên đảo. Và sẽ không thể biện minh cho “tội lỗi” của mình.



Chú Fred dẫn tôi đến sảnh chính của tòa nhà, gửi gắm tôi cho nhân viên an ninh và rời khỏi đó. Chú nói rằng mình vẫn còn đang trong thời gian nghỉ phép nên không nhất thiết phải đi cùng tôi vào Viện. Chú không còn là một nhà nghiên cứu. Chú đã nói điều này trên đường đến đây. Mỗi thành viên của ISH đều có trách nhiệm riêng và Viện trưởng cũng không bắt buộc họ phải tham gia vào dự án mới được phép ở lại.

Có một số nhà nghiên cứu, sau khoảng thời gian gắn bó với công việc thì nhận thấy bản thân không còn phù hợp với phòng thí nghiệm, Richard Campbell đã đưa ra quyết định cho phép họ lựa chọn công việc mới phù hợp với bản thân thay vì cố gắng nhốt mình trong phòng nghiên cứu. Và chú Fred là một trong số đó – từ nhà khoa học trở thành người tuyển chọn nhân tài cho tổ chức.

Tôi hỏi chú vì sao không lựa chọn một con đường khác thay vì ISH nhưng chú chỉ im lặng. Bố tôi từng nói rằng mỗi người sinh ra đều có một sứ mệnh riêng cần phải gánh vác, và ông luôn yêu cầu tôi phải ghi nhớ điều này. Bố chỉ muốn ép tôi vào cái khuôn khổ mà ông ấy kỳ vọng, trở thành một người “thừa kế”, gánh vác công việc và cả “sứ mệnh” của ông. Thực tế, tôi chẳng có sứ mệnh gì cả, cũng không cần thiết phải gánh vác cái “sứ mệnh cứu thế” viển vông đi ngược với đạo đức con người. Nhưng tôi buộc phải làm thế. Tôi không thể cãi lời bố hay thẳng thừng dập tắt hy vọng của ông. Việc duy nhất tôi có thể làm là trốn chạy và chờ đợi đến khi “sứ mệnh” ấy tìm đến chỗ mình.

Tôi là niềm tin của bố.

Mẹ nói, bố chỉ thật sự “sống lại” một lần nữa khi tôi chào đời. Nói cách khác, tôi là cuộc đời mới của ông, là niềm tin và là lẽ sống mà ông luôn khao khát. Có lẽ vì ám ảnh bởi những lời nói đó nên tôi chẳng bao giờ thoát ra hoàn toàn. Ngay cả khi đã lựa chọn một con đường khác, trở thành một con người khác, tôi vẫn luôn có cảm giác là bố dõi theo tôi.

Đồng nghiệp của bố nhắn nhủ rằng ông đã ra đi thanh thản, nhưng dường như tôi luôn cảm thấy di nguyện của ông vẫn chưa thành toàn. Có điều gì đó vẫn còn uẩn khúc và tôi nghĩ mình không thể cứ nhắm mắt làm ngơ. Tôi quyết định đến ISH theo lời đề nghị của chú Fred, một phần vì trách nhiệm phải bảo vệ cho thành tựu cuối cùng của bố, phần còn lại là vì tôi muốn biết cuộc đời ông – phía bên kia cánh cửa phòng thí nghiệm, là cuộc đời lừng lẫy đến nhường nào.

Nhân viên an ninh là một người đàn ông cao lớn với ánh mắt nghiêm nghị, từ lúc tôi đến gần đã luôn nhìn chằm chằm như thể muốn kiểm tra từng phản ứng nhỏ nhặt nhất của tôi. Nếu đến được đây thì hiển nhiên không phải người bình thường, nhưng tôi cũng không phải là thiên tài chân chính vượt qua cuộc tuyển chọn của ISH. Tôi là một trong số ít trường hợp (hoặc là người duy nhất) “đi cửa sau”, lợi dụng “ô dù” để trót lọt vào Viện nghiên cứu mà chẳng có lấy một tài năng hay bất kỳ kiến thức nền tảng nào. 

“Chào mừng đến với ISH,” Ông ta nói với giọng dứt khoát. “Một khi đã đặt chân qua cánh cửa này thì không thể trở ra được nữa.”

“Cháu có thể biết lý do không?”

Chú Fred đã “tạm” giải thích cho tôi trước đó. ISH yêu cầu tiêu chuẩn an toàn tối đa cho những cuộc thí nghiệm bằng cách nghiêm cấm các nhà khoa học tiếp xúc với môi trường bên ngoài chứa nhiều tạp chất trong khí quyển. Nghĩa là một nhà nghiên cứu phải giữ bản thân trong trạng thái vô trùng[3] suốt thời gian tiến hành thí nghiệm. Nhưng tôi không phải nhà nghiên cứu, thậm chí, chú Fred đã nói sẽ rất khó để tôi có thể tận mắt chứng kiến những bản sao vì chúng được “nuôi dưỡng” ở một khu vực tách biệt khác.

“Bên trong Viện Nghiên cứu là môi trường vô trùng, chi phí sát khuẩn rất đắt nên không thể tùy tiện lãng phí được. Chỉ những ai có thẻ thông hành của Viện trưởng mới được phép ra ngoài nửa năm một lần.”

Vẫn là lời giải thích hệt như chú Fred, nhưng “nửa năm một lần” thật sự quá lâu. Viện trưởng là Richard Campbell. Tôi đã nghe một vài tin đồn chẳng mấy hay ho về người đàn ông bí ẩn này. Ông ta là một trong số ít những nhà khoa học có thể đứng ngang hàng với bố tôi ở thời khắc chuyển giao giữa hai thế kỷ, và cũng đồng thời là một doanh nhân thành đạt. Thẻ thông hành của Viện trưởng hẳn là một tấm thẻ khắc tên của ông ta, được đóng mộc bằng thứ mực đỏ thiết kế riêng biệt và chỉ được trao cho những cá nhân nhận được sự tin tưởng tuyệt đối. Nghe thôi đã biết chẳng tới lượt mình.

“Nhưng cháu chỉ là người chăm sóc cho Dorry. Cháu không hề tiếp xúc với những người khác.”

“Rất tiếc. Đây là quy định.”

Người đàn ông tiếp tục dẫn đường và tôi lầm lũi theo sau. Tôi có cảm giác là bản thân vừa bị rơi vào một cái bẫy vô cùng nguy hiểm. Chú Fred rất tốt (hoặc cũng có thể không), nhưng tôi không thể ngây ngốc tin rằng mọi lời chú ấy nói đều sẽ sớm trở thành hiện thực. Thế mạnh duy nhất mà tôi có là cái danh “con trai của Tiến sĩ Albert”. Nếu so với những nhà khoa học khác thì tôi chỉ là một con người bình thường, học ngành Mỹ thuật và vừa bước sang độ tuổi ba mươi. 

Ngoại trừ “bộ não thiên tài” vẫn đang ngủ yên thì thậm chí tôi còn chẳng có gì để so sánh với bạn bè đồng trang lứa. Kinh doanh thì thua lỗ, cũng không có bức họa nào để đời. Sức khỏe chỉ nằm ở mức ổn, trái gió trở trời thì xương khớp đau nhức, đầu óc không quá nhanh nhẹn, đôi khi còn từ chối tiếp thu. Và bây giờ thì mơ hồ không biết có chăm sóc tốt được cho Dorry hay không khi đến chính bản thân còn chưa tự lo nổi. 

Vị trí chúng tôi đang đứng là tầng trệt trên mặt đất, còn nơi giam giữ Dorry là tầng hầm thứ bảy. Nhân viên an ninh chỉ tay về phía cửa phòng khử trùng đầu tiên, giọng điệu dứt khoát như đã lặp đi lặp lại thủ tục này cả trăm ngàn lần.

“Để vào khu vực nghiên cứu chính thức của ISH cần phải khử trùng triệt để. Đầu tiên là tắm rửa sạch sẽ và ngâm mình trong dung dịch sát khuẩn có nồng độ cao, sau đó sẽ đi qua ba máy quét vi trùng. Quy trình này sẽ tốn khoảng bốn mươi lăm phút.”

Khi tôi bước chân vào bồn tắm chứa dung dịch sát khuẩn, một cảm giác lạnh lẽo ngấm vào da, lan dần khắp cơ thể. Dung dịch đặc quánh có mùi hóa chất cay nồng khiến đầu óc tôi choáng váng. Tôi đã biết trước ISH là một nơi điên rồ, nhưng không ngờ mọi thứ lại nằm ngoài sức tưởng tượng. Hẳn là Richard Campbell phải có cơ sở mới dám tự tin khẳng định sức mạnh của Viện nghiên cứu trước công chúng. Những điều ông ta từng nhắc đến, nghe thì có vẻ xa vời nhưng cũng không có nghĩa là không thể trở thành hiện thực. 

Dung dịch khử khuẩn tiếp xúc với da như hàng triệu mũi kim đâm xuyên qua từng lớp biểu bì. Tôi có thể cảm nhận được làn da căng lên dưới tác động của nó. Đây không phải là thứ dung dịch khử trùng thông thường, và cũng không được các tổ chức y tế khuyến nghị, mà chỉ được phát triển riêng cho các nghiên cứu bí mật của ISH. Quy trình này không chỉ đơn giản là một bước chuẩn bị, nó giống như một nghi thức “thanh tẩy” mà ai nấy cũng phải thực hiện nếu muốn đặt chân vào Viện nghiên cứu.

Tôi nằm yên, mắt nhìn lên trần, cố điều chỉnh hơi thở ổn định. Bên tai truyền đến tiếng máy móc rì rầm, rập khuôn và vô cảm. Trong một khoảnh khắc, tôi chợt nghĩ đến bố, đến những gì ông đã đánh đổi để được “tồn tại” ở nơi này. 

Không ai nói cho tôi biết điều gì đã xảy ra ở những năm tháng đầu tiên ISH được thành lập. Bố tôi là một trong những nhà khoa học tiên phong trong dự án đầu đời[4] của Viện nghiên cứu, cùng với Richard Campbell và một vài người nữa. Ông hiếm khi chia sẻ về quá khứ của mình, dù nơi đó có những khoảnh khắc huy hoàng và cả tăm tối. Bố muốn, trong mắt tôi, ông lúc nào cũng là một thiên tài hoàn hảo, nhưng tôi biết rõ, là con người thì chẳng có ai sống mà không phạm sai lầm.

Bố đã thành công che giấu tội ác của mình. Tôi công nhận điều ấy khi số người trên thế giới chọn đứng về phía bố tôi đã nhiều gấp ba lần so với những người phản đối ông cộng lại. Chỉ trong vòng ba mươi năm – khoảng thời gian có thể cho là quá ngắn kể từ năm 1996, dư luận đã đổi chiều và họ dần tin rằng việc nhân bản con người là một dấu hiệu tươi sáng để nhân loại có thể trường tồn vĩnh viễn. 

Nếu bố còn sống, chắc chắn ông sẽ rất tự hào. Tôi vẫn còn nhớ gương mặt hạnh phúc khi ông chứng kiến tên tuổi của mình xuất hiện trên mặt báo và hàng loạt phương tiện truyền thông. Điều ý nghĩa nhất với cuộc đời của một nhà khoa học là những nghiên cứu của mình sẽ được biết đến rộng rãi và được công nhận bởi số đông, tên tuổi của bản thân sẽ ghi danh sử sách và trở thành nguồn động lực to lớn cho thế hệ kế tiếp.

Chẳng có ai vứt bỏ đạo đức của mình để ủng hộ cho một thành tựu nguy hại. Bố tôi biết rõ công việc của mình là sai trái, nhưng đáng tiếc, đứng trước lòng tham thì lương tâm hiếm khi nào chiến thắng.

Mọi lỗi lầm đều phải trả bằng một cái giá tương xứng. Tôi luôn ghi nhớ điều này, và tôi thật sự tin vào nhân quả. Ngay cả khi người ta nói rằng tôi quá mê tín so với một đứa trẻ được nuôi lớn bởi người bố hiện đại, tôi vẫn luôn có niềm tin rằng không có lỗi lầm nào mà không phải trả giá. Nếu chính phủ, UNHRC hay các tổ chức đại diện cho con người hoàn toàn bất lực trước hành vi phi pháp thì thế giới này đã sụp đổ từ lâu. Tôi biết là mình đã không còn tư cách để bàn về nhân quyền hay luật pháp, nhưng từ tận đáy lòng, tôi luôn đứng về phía nhân loại và chính nghĩa, cũng như sẵn sàng “được” trả giá thay cho những tội lỗi của bố mình.



“Cậu Andrey… Này, tỉnh lại đi.”

Tôi nhíu mày, cố gắng mở mắt khi bị đánh thức bởi những tiếng ồn xung quanh. Đầu óc choáng váng đến mức tôi chẳng thể nhìn thấy rõ những gương mặt đang xoay vòng trước mắt, tôi chỉ có thể nghe thấy giọng nói của một người nào đó đang liên tục gọi tên mình giữa vô vàn những âm thanh hỗn loạn.

“Cậu ổn chứ?” Là giọng của phụ nữ.

Đèn trong phòng rất chói, tôi chưa thể thích ứng ngay, chỉ có thể nhắm chặt mắt rồi lại mở ra nhưng cái cảm giác mờ mịt vẫn không thuyên giảm.

“Cháu… cháu không thấy gì cả…”

“Không sao,” Người phụ nữ trấn an. “Bình tĩnh lại.”

Tôi cố gắng nghe theo lời chỉ dẫn của bà ấy, nhưng cái cảm giác mắt đã mở mà không thể nhìn thấy thật sự rất đáng sợ.

“Cháu sẽ bị mù sao ạ?”

“Làm gì có chuyện đó,” Lần này là giọng nói của một thanh niên. “Cậu chỉ đang bị sốc phản vệ[5] thôi. Đây là trường hợp đầu tiên đấy, cơ mà cũng khá nghiêm trọng. Có lẽ tôi nên kiểm tra lại thành phần của chúng…”

Chúng? Cậu ta đang nói đến dung dịch khử khuẩn tôi đã ngâm mình đúng không nhỉ? Cơ thể tôi đã phản ứng với thành phần nào đó trong dung dịch và xuất hiện cảm giác châm chích, nhưng tôi nghĩ đấy là điều hiển nhiên nên không xác nhận lại với nhân viên. Tôi nhớ là mình đã ngồi trong bồn tắm được năm phút, sau đó nghĩ về bố và không biết gì nữa.

“Cháu như thế này được bao lâu rồi?”

“Khoảng mười lăm phút.”

Người phụ nữ trả lời và tôi có cảm giác là bà ấy đang bắt mạch cho tôi, có vẻ như là một bác sĩ. 

“Cậu đi làm việc của mình đi, tôi sẽ trông chừng cậu ta.”

“Được.” Người thanh niên đáp lại và rời đi.

Mắt tôi vẫn chưa thể thấy rõ, nhưng tôi loáng thoáng nghe được tiếng đóng cửa rồi người phụ nữ kia thở dài.

“Tôi không nghĩ là cậu sẽ đến đây,” Bà ấy nói. “Tên tôi là Emily, là đồng nghiệp của bố cậu.”

Emily, tôi chưa từng nghe thấy cái tên nào như vậy trong số những đồng nghiệp của bố. Và trong tấm ảnh duy nhất với các thành viên của ISH mà bố để lại cũng không có bất cứ người phụ nữ nào xuất hiện trong đấy. Có thể cô Emily là thành viên mới của Viện nghiên cứu, nhưng tôi cũng có cảm giác là cô ấy đã quen biết bố mình từ rất lâu.

“Tại sao cô lại nghĩ như vậy?” Tôi tò mò.

“Lão Albert luôn than vãn về đứa con trai bất trị của mình, và nói rằng sự nghiệp của lão sẽ kết thúc khi lão qua đời vì con trai đã lựa chọn theo ngành Mỹ thuật.”

“Bố cháu thật sự đã nói như vậy sao?”

“Lúc nào mà chẳng thế,” Cô Emily thở dài. “Đến lúc chết, lão vẫn lo cho cậu, Andrey.”

À, quả nhiên là họ có quen biết. Thậm chí đến cả một người thân thuộc với bố như chú Fred còn không biết bố tôi như thế nào ở khoảnh khắc cuối đời, nhưng Emily đã nói với tôi những lời như thể cô ấy biết tất cả. Liệu tôi có thể hỏi cô ấy nhiều hơn không nhỉ? Nói đúng hơn là liệu cô ấy có tin tưởng một người vừa mới gặp (dù tôi là con trai của Albert) đến mức thành thật với tôi về mọi thứ hay không? Khi tôi vẫn đang thắc mắc thì cô ấy lại một lần nữa mở lời.

“Đáng lẽ cậu không nên đến đây…” Cô Emily nói thầm, nhưng vẫn đủ để tôi nghe thấy. “Tôi đã hy vọng cậu sẽ không đến…”

Tôi cảm thấy khó hiểu, và vì không thể nhìn thấy thái độ của cô ấy khi nói ra những lời này nên tôi lại càng lo lắng hơn. Chú Fred luôn thúc giục tôi hãy đến đây để bảo vệ cho “thành tựu” của bố, còn cô Emily – người có vẻ hiểu rõ về bố tôi – lại hy vọng tôi sẽ không chấp nhận lời đề nghị. Tôi không biết có điều gì mâu thuẫn ở đây hay không, nhưng khi bản thân tôi vẫn còn đang do dự về quyết định của mình thì lời nói của cô Emily chẳng khác nào mồi lửa thiêu rụi chút quyết tâm ít ỏi trong tôi. Tôi vốn đã không có thiện cảm với ISH, và trước vô vàn lời lẽ tốt đẹp mà chú Fred gieo rắc vào đầu trên suốt chặng đường đến đây, tôi đã chọn tin vào niềm hy vọng chẳng mấy rõ ràng nhưng đầy áp lực mà cô Emily mang đến.

“Cháu…” Tôi bắt đầu run rẩy. “Cháu chỉ muốn bảo vệ cho thành tựu của bố cháu thôi… Chú Fred nói, Viện trưởng sẽ ra lệnh tiêu hủy Dorry nếu cháu không đến… Cháu sợ… Cháu sợ bố cháu sẽ không an lòng…”

“Vì Dorry nên cậu đến đây à?”

“Vâng…” Tôi thoáng ngập ngừng. “Đúng hơn là vì bố nên cháu mới đến…”

Tôi nghe thấy tiếng cười khẩy nhè nhẹ phát ra từ phía cô Emily. Thật khó hiểu, rốt cuộc thì cô ấy đang bày ra vẻ mặt gì, tôi cứ thắc mắc mãi về điều đó. 

“Nằm yên đi,” Cô Emily bất ngờ lên tiếng. “Tôi sẽ tiêm thuốc cho cậu. Vì không phải loại thuốc thông thường nên hơi đau một chút, nhưng sức khỏe của cậu sẽ hồi phục ngay.”

Nghe thật vô lý, nhưng tôi vẫn ngoan ngoãn nghe theo. Chú Fred dặn dò tôi đừng bất ngờ với những tình huống bất thường bên trong Viện nghiên cứu, vì điều gì cũng có thể xảy ra. Có lẽ, trường hợp này cũng không ngoại lệ.

“A…”

Tôi không sợ tiêm thuốc, nhưng cái cảm giác này cũng lố bịch quá rồi. Tôi có thể cảm nhận cơn đau rõ rệt, hình như đến cả mạch máu cũng dần căng lên trước áp lực thuốc đẩy vào cơ thể. 

“Thả lỏng tay.” Cô Emily nghiêm giọng nhắc nhở.

Tôi không có cách nào để yêu cầu cô ấy hãy dừng lại. Lưỡi tôi bắt đầu tê rần và đơ cứng, hai mắt từ mờ đục chuyển thành một màu tối đen. Tôi không thể vùng vẫy bởi người phụ nữ này mạnh khủng khiếp. Cô ấy giữ chặt tay tôi và tiếp tục đẩy thuốc vào. Tôi có cảm giác chỉ cần kéo dài thêm một giây thì mạch máu sẽ không chịu được áp lực mà vỡ toát. Đầu óc tôi lại choáng váng và nhịp tim trở nên bất thường. Tôi nghe thấy tiếng tim mình đập rất mạnh, rất nhanh và bắt đầu cảm thấy khó thở. 

“Dừng lại…”

Không có âm thanh nào bật ra khỏi cổ họng dù tôi có cảm giác như mình đã gào thét rất nhiều. Cơn đau nơi mũi kim đâm vào không hề thuyên giảm mà bắt đầu lan dần khắp tứ chi. Cơ thể tôi đông cứng lại và tôi tưởng chừng như mình đã cận kề cửa tử. Cô Emily không nói một lời nào, và dường như cũng chẳng có vẻ gì là hoảng hốt. Tôi sợ. Tôi không biết mình có còn đủ sức để sống nữa hay không. 

Trước cơn đau khủng khiếp nhất trong đời, tôi thấy hối hận vì quyết định của mình. Lần này thì tôi thật sự đã cảm thấy hối hận. 


_____

[1] Nguyên thể là người cung cấp mẫu ADN (tế bào gốc) cho dự án nhân bản.

[2] ISH cho phép các nhà nghiên cứu tạo ra bản sao của chính mình để hỗ trợ công việc, và trong trường hợp nguy cấp, họ hoàn toàn có quyền thực hiện những cuộc phẫu thuật cấy ghép trong khả năng.

[3] Vô trùng là trạng thái không có vi sinh vật gây bệnh (như vi khuẩn gây bệnh, vi rút, nấm gây bệnh và ký sinh trùng) – theo Wikipedia.

[4] Dự án “đầu đời” là nói đến Dorry.

[5] Sốc phản vệ là tình trạng phản ứng dị ứng cấp tính nghiêm trọng, xảy ra khi tiếp xúc với dị nguyên (thực phẩm, thuốc, độc tố từ côn trùng…)

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout