Năm ấy, trời Lam Sơn sang xuân mà gió vẫn mang vị khô khốc của tàn tro và khói đạn pháo. Trên những đồi thấp ngả bóng về phương tây, lúa nảy mầm thưa thớt như người ta vừa gắng cắm xuống cánh đồng những niềm hy vọng còn run rẩy. Chiến tranh đã lui về sau lưng mấy năm, nhưng dấu vết của nó vẫn nằm lại trong từng tảng đá vỡ, từng mái nhà sụp và trong cả ánh nhìn lặng lẽ của người già ngồi bên bếp tro nguội. Lê Tự trở về làng trong một buổi chiều như thế, cảnh nhìn im lặng chắng mấy ai ra tiếp đón.

Không ai nhận ra ông lúc đầu. Gã đàn ông mặc áo nâu vá, vai vác túi vải thô, đi chân đất, tóc tai rối như lau sậy dọc suối. Ông bước chậm, mắt quét từng góc vườn, từng gốc cây. Mảnh đất ấy từng là nhà, là ruộng, là sân... giờ cỏ dại đã phủ đến thềm, vách nứa mục nát, chỉ còn lại khung cửa nghiêng ngả và bức liếp tre rách tả tơi trong gió. Ông thở dài. Không phải vì cảnh, mà vì chính lòng mình cũng đã hoang vu như thế.

Hơn mười năm chinh chiến, ông từng là một trong những cánh tay đầu tiên theo Lê Lợi dựng cờ nghĩa. Từ ngày đi theo quân Lam Sơn vượt rừng đánh giặc Minh, ông đã từng cầm giáo ở Tốt Động, từng trèo núi Chí Linh, từng nằm gai nếm mật nơi xứ Nghệ, tận mắt chứng kiến bao cái chết đồng đội, dân lành lẫn đôi khi cả những người không tên không tuổi, chỉ còn nhớ trong giấc mơ mịt mùng khói lửa.

Ngày khải hoàn về Đông Kinh(1), vua Lê Thái Tổ(2) thân phong ông chức Tuyên võ lang, thưởng ngàn quan tiền, một chiếu chỉ và cho tùy ý chọn ruộng tốt ở vùng nào cũng được. Bao kẻ hối hả ra làm quan, nhận chức tước, xây phủ, cưới thiếp. Riêng Lê Tự lại xin được trở về quê, không nhận tước cũng chẳng mang theo gì ngoài một túi nải chứa y phục, một khúc sáo tre cũ và bức chiếu chỉ cuộn chặt trong tay áo.

Suốt chặng đường về quê thi thoảng ông lại lấy khúc sáo tre ra thổi. Gương mặt ấy lẫn bàn tay ấy kéo léo đưa ra những khúc nhạc khiến người dân thoáng dừng lại nhìn thử. Hóa ra âm thanh ấy như mang theo cả một thời đã mất. Đã bao lâu rồi nhỉ, tiếng sáo ấy lại cất lên trong veo lúc nước nhà hòa bình

Ông muốn về lại đây về lại nơi có người đàn bà từng thắp đèn chờ ông suốt mùa gió bấc năm xưa, nơi có giếng nước bờ tre và mùi trầu cay nồng ấm trên vạt áo người mẹ già tiễn đưa ông đi. Ông không tìm thấy mẹ nữa, thế rằng lắc đầu thở dài giữa vầng trán có vài vết sẹo của thời sương gió. Bà đã mất ba năm trước, vì đói và sốt rét. Hàng xóm nói lại rằng lúc hấp hối bà vẫn dặn:

"Nếu thằng Tự còn sống, bảo nó đừng về... quê mình không còn gì." Nhưng bà đã lầm. Ở quê, vẫn còn một người. Ấy là Diễm vợ ông, hay đúng hơn là người vợ chưa cưới. Họ đính hôn năm mười tám tuổi, khi ông mới bắt đầu theo quân nghĩa. Đám cưới chưa kịp diễn ra thì giặc đã về, ông mang tay nải trên vai, quấn khăn chặc trên tráng, khoác áo choàng của cha rời đi. Bà ở lại chạy giặc đến nơi an toàn, nuôi mẹ già và mỗi ngày chắp tay cầu nguyện thần Phật phù hộ cho ông. Bà vẫn chờ, chờ ngày ông trở về để trọn vẹn hẹn ước.

Nhưng thời gian trôi qua, Diễm giờ không còn là người con gái má hồng tóc mượt của ngày ấy. Bà ngồi trước hiên một túp lều nhỏ dựng bên sườn núi, đôi mắt mờ đục, tay lần từng sợi chỉ thêu, không đầu không đuôi trên một mảnh vải đã rách. Khi ông gọi tên bà, Diễm chỉ cười như nghe tiếng gió. Bà không nhận ra ông nữa, còn định la lên cũng may lúc ấy có vài người mang củi trở về giải thích. Người ta kể, hàng xóm kể, Diễm bị sét đánh hụt một lần khi chạy loạn sau đó thì lúc tỉnh lúc mê quên mất thời gian nhưng vẫn ngồi mỗi chiều nơi hiên, chờ ai đó.

Lê Tự không nói gì cả. Ông chỉ bước tới, ngồi xuống cạnh bà, lấy trong tay nải ra một chiếc khăn tay thêu dở vẫn còn nguyên vết máu cũ ấy là kỉ vật bà đã gửi cho ông ngày chia tay, kèm câu nói:

"Về được thì cưới, không về thì cũng cầm theo xuống mồ." Ông lau tay bà bằng chính chiếc khăn ấy, dịu dàng cất giọng.

Diễm khựng lại một khắc. Rồi bà mỉm cười, nụ cười như cô thiếu nữa năm nào từng trêu đùa ông. Bà khi này chỉ hỏi một câu duy nhất:

"Anh Tự..." Có thể bà nhớ ra, lệ run rơi rơi nhìn ông chăm chú. "Anh đi lâu vậy... nay về cưới em chưa?"

Ông không đáp ngay. Ông chỉ cúi đầu, áp trán lên đôi tay khô gầy ấy, nước mắt thấm vào mảnh vải đã phai màu năm tháng. Ngoài hiên, trời Lam Sơn đổ nắng muộn. Một đàn chim sà qua rặng núi xa. Cái lạnh cuối mùa vẫn rịn trong gió, nhưng Lê Tự cảm thấy tay bà ấm hơn bất cứ lần trở về nào trong đời.

"Nín đi...Nín đi...Bé ngoan là không được khóc." Diễm vỗ nhẹ vào lưng ông hệt như một đứa trẻ thơ dỗ dành con nít. Ông Tự cảm nhận sâu lắng, bởi mỗi lần trong quá khứ nếu ông có buồn hay đau lòng gì đó, bà vẫn thực hiện hành động đó mặc kệ cho những lời châm chọc nói móc của người khác.

Ông cố cười, một nụ cười méo xệch, pha giữa nước mắt và ký ức. Đã từng có những ngày ông nằm giữa chiến trường, chăn rách bọc thân, gió thốc vào da thịt như kim châm vậy mà không rơi một giọt lệ. Nhưng bây giờ lạ thay, khi nghe Diễm nói câu dỗ dành như ngày xưa giữa một gian lều xiêu vẹo giữa những tháng năm rách nát, tim ông mới thực sự thấy mình là một con người còn sống.

Tối hôm đó, ông ở lại trong lều. Ông nhóm một bếp củi nhỏ nấu nồi cháo trắng khuấy đều. Diễm ngồi bên, tay vẫn thêu những nét chỉ rối, miệng lẩm nhẩm mấy câu hát ru vỡ vụn như tiếng gió thì thầm. Ông nhìn bà không chớp. Tóc đã gần biến sắc hết, mắt không còn sáng, nhưng có gì đó ở Diễm khiến ông thấy mình như chàng trai hai mươi tuổi lần đầu nắm tay một người con gái dưới tán xoan nở ở đầu làng.

...

Những ngày sau đó, Lê Tự bắt đầu dựng lại túp lều thành mái nhà. Ông chặt tre dưới chân núi nọ, vác đá nhỏ từ suối về, lợp tranh bằng những bó cỏ khô còn sót lại sau vụ mùa. Không ai giúp ông, đôi lúc Diễm tỉnh táo lại thì cười nói phụ ông đưa đồ. Dân làng ở đây phần lớn đều già yếu, còn thanh niên thì đã chết trong loạn lạc hoặc tản cư đâu đó chưa trở về. Ông từng quen đào bẫy trong mưa, khi đói tới nỗi phải nhai vỏ cây, từng quen dựng trại chỉ bằng hai bàn tay trần băng bó mảnh vải trắng giữa rừng thẳm. Vậy nên chỉ cần còn sức thở, ông vẫn dựng được một mái nhà để che nắng cho người đàn bà đang ngồi lần chỉ mỗi chiều.

Diễm không nói gì nhiều cả. Có khi bà tỉnh, có khi mê. Lúc tỉnh thì gọi ông là "anh" lúc mê lại hỏi ông: "Cha đi đâu lâu vậy?" Nhưng ông không lấy đó làm đau. Ngược lại, chính những lúc ấy lòng ông lại dịu đi như thể thời gian hơn mười năm đã cuộn tròn thành một vòng tay, và cả hai người họ chỉ vừa mới chia xa một buổi chiều hôm trước.

Vào một buổi chiều quang đãng, khi mây trắng trôi lững lờ trên đỉnh Lam Sơn và những ngọn cỏ đầu bờ bắt đầu vươn mình đón nắng, ông Tự ngồi trước mái nhà, nhìn về hướng cánh đồng đang dần hồi sinh. Khói bếp từ vài nóc nhà thấp thoáng vươn lên trời, thưa mà ấm vô cùng. Quê hương sau bao mùa giặc giã, cuối cùng cũng đang học cách thở yên lành trở lại.

Ông khẽ mỉm cười. Đôi mắt từng thấy quá nhiều lửa máu giờ đây chỉ muốn nhìn màu xanh của lúa non, màu vàng nhạt của nắng chiều. Ông cụm mắt hít một hơi thật sâu, chậm rãi rút ra cây sáo cũ vẫn luôn mang theo bên mình, thứ duy nhất còn nguyên vẹn sau bao mùa dâu bể. Ông quý nó như sinh mạng, cũng bao lần đánh giặc vì nó mà ông quay lại, vô tình cứu đỡ vài đồng đội còn hơi thở rút lui an toàn. Khúc sáo vang lên không mạnh mẽ, không hoàn hảo nhưng trọn vẹn là một thời chưa vương khói lửa. Giai điệu ấy, ngày xưa ông thổi, bà Diễm hát. Lúc đó, họ chỉ là đôi trẻ mới lớn, hát cho nhau nghe bên giếng nước, dưới rặng xoan đầu mùa.

Bên trong mái nhà vừa mới làm, bà Diễm ngồi bên khung vải, đôi tay vẫn lần những mũi thêu lạc lối. Nhưng khi âm thanh quen thuộc cất lên, bà bỗng khựng lại. Đôi mắt mờ đục bỗng ánh lên tia sáng lạ thường. Trong những tàn dư ký ức đứt đoạn mơ hồ, tiếng sáo ấy là sợi chỉ cuối cùng giữ bà với đời.

Bà đứng dậy, run rẩy bước ra khỏi mái nhà. Không nói gì cả, bà chỉ lần theo âm thanh tìm đến. Miệng bà khẽ mấp máy, rồi khe khẽ cất tiếng hát chậm, vấp, đôi lúc không rõ lời nhưng là đúng bài ca ngày ấy. Giai điệu vỡ vụn từ trí nhớ, nhưng trái tim thì nhớ. Mỗi bước chân, mỗi câu hát dẫn bà đi lùi lại thời gian, về những ngày má còn hồng, tóc còn mượt, và người con trai bên giếng nước nhìn bà bằng đôi mắt dịu dàng nhất trần gian.

Ông Tự thấy bóng bà từ xa và giọng hát ấy, dù yếu mềm thậm chí là vụt tắt hụt hẫn vẫn khiến tim ông nghẹn lại. Ông không ngừng thổi sáo, hai tay chạm vào cây sáo điều nhịp, chỉ sợ nếu ngưng một nhịp thì phép màu sẽ tan đi. Bà Diễm đến gần. Nhìn ông một thoáng lặng, bà dịu dàng cười, như một đóa hoa dại hé nở sau mưa.

"Khúc này... ngày xưa anh chỉ thổi khi em giận." Bà nói, mắt rưng rưng hoài niệm.

Ông Tự rủ vai đặt cây sáo xuống bên thắt lưng, gật đầu đáp.

"Thì bây giờ... em tỉnh rồi, anh cũng hết giận đời."

Đêm hôm ấy, trời Lam Sơn không trăng nhưng đầy sao. Gió từ rừng về se lạnh, lùa qua những kẽ nứa mái nhà ông Tự mới lợp. Trong gian nhà nhỏ còn vương mùi tranh mới và tro củi, ông đặt giữa mâm cơm một nồi cháo trắng, một đĩa rau luộc và một chén muối vừng.

Diễm ngồi đối diện, mặc chiếc áo màu chàm ông mới mua được từ cụ già bán hàng. Tóc bà đã được chải lại gọn gàng. Dù mắt vẫn đục, trí nhớ lúc tỉnh lúc mê, nhưng bà cười nhiều hơn hôm qua rất nhiều. Ông Tự thắp một ngọn đèn dầu. Ánh lửa nhỏ hắt lên hai gương mặt đã qua nửa đời người, hằn đầy vết nhăn và bụi khói, nhưng lấp lánh trong đó là một thứ ánh sáng khác ánh sáng của thứ tình cảm không ai dạy mà ai cũng biết giữ.

"Cháo này là cháo cưới." Ông nói, giọng chậm rài và khe khẽ trong gió rừng.

Diễm nghiêng đầu nhìn ông rồi phá lên cười, tiếng cười lẫn vào tiếng đêm, vừa ngây ngô, vừa như thấu hiểu. Vậy mà bà còn biết trêu ông giống bao năm trước đây.

"Cưới gì, cưới ai?"

"Cưới em. Cưới người đã đợi ta hơn mười năm trong tỉnh mê."

"Ờ... Thế là cưới rồi hả?"

Ông không đáp. Chỉ múc cháo vào bát bà, rồi múc cho mình. Hai người ăn lặng lẽ, mỗi muỗng cháo nuốt xuống là một kỷ niệm trở về. Không cần nhẫn, không cần ai làm chứng. Chỉ cần bầu trời Lam Sơn và một mái nhà vừa dựng. Trong đêm tĩnh lặng, những thứ giản dị nhất lại thành thiêng liêng nhất. Khi ăn xong, ông dọn mâm, rót hai chén trà nhạt, rồi lấy cây sáo tre ra đặt vào tay bà.

"Mai này nếu ta không còn, em giữ lấy. Sáo này khi thổi lên, ta sẽ biết đường về." Bà ấy ôm cây sáo như ôm cả một phần hồn của người trước mặt. Ở ngoài trời, gió thổi qua những tán cây sấu già. Một đêm cưới thầm lặng không nghi lễ, không tràng hoa nhưng sâu đến tận đáy tim như thể trời đất cũng cúi đầu chứng giám.

_______________

Vào một buổi sáng đầu hạ, khi sương còn đọng trắng như khói mỏng trên ngọn cỏ, và ánh mặt trời chỉ vừa chớm ló sau lưng dãy Lam Sơn, Lê Tự lặng lẽ vác dao vào rừng kiếm măng. Không khí ẩm sau trận mưa đêm trước thấm đẫm từng phiến lá từng gốc cây. Gió sớm thổi qua, mang theo mùi ngai ngái của đất rừng và thoảng đâu đó tiếng chim khách gọi nhau xa vắng. Dưới từng bước chân ông, con đường mòn phủ đầy lá mục và rêu xanh lặng lẽ lối đi. Đang định bước qua một mô đá, Lê Tự bỗng khựng lại. Dưới nền đất ướt là những dấu chân nhỏ, xiêu vẹo, mờ nhòe, không phải của nai rừng hay thú hoang mà là của một người, một người rất nhỏ, có lẽ là trẻ con. Dáng dấu in xuống từng vệt đất như thể chủ nhân đã lê từng bước bằng chút sức lực cuối cùng.

Ông chậm rãi lần theo dấu vết ấy, băng qua một rặng tre non còn đọng mưa, tới mép một khoảng rừng trống. Và rồi, ông thấy, một đứa bé chừng tám, chín tuổi đang quỳ rạp dưới gốc cây dẻ già, hai tay cào đất như tìm gì dưới lớp lá dày. Áo thằng bé rách bươm, lưng áo thủng như từng bị gai rừng cào nát thấm vào da thịt. Tóc dài rủ xuống vai đầy vết bùn, vai gầy run lên trong cơn gió sớm. Đôi chân nhỏ bé tím tái, khô nẻ. Mỗi lần thở, lồng ngực nó phập phồng như cố gắng níu lấy hơi thở cuối cùng giữa cơn đói và cái lạnh thấu xương.

Lê Tự đứng bất động giữa một hình ảnh ấy như một vết dao cắt ngang ký ức cũ. Năm xưa, cũng một mình ông từng rơi xuống khe núi trong trận chiến, đói đến mờ mắt, lạnh đến co quắp người giữa mưa rừng. Không một tiếng gọi tên không một bàn tay đưa ra, chỉ có âm thanh thổn thức cha ông vượt dậy hãy bảo vệ đất nước, quyết sạch quân thù.

Đứa bé nhìn ông, ánh mắt hoang hoải như con thú nhỏ gặp người lạ. Tay cậu nhóc nắm chặt cái rổ tre vốn chẳng còn nên, toàn thân căng lên như chực bỏ chạy.

"Cháu tên gì?" Ông hỏi giọng vừa trầm vừa mềm giống sương rừng chứ không hề dọa nạt. Đứa trẻ ấy không trả lời, chỉ nhìn, nhìn về hướng nọ có lẽ nơi đó là khởi nguồn cho tiếng khóc cậu nhóc.

"Cháu có đói không?"

Nó đắng do mãi mới gật đầu chậm rãi, động tác gần như lấy hết can đảm còn sót lại.

Lê Tự tháo túi vải bên hông, lấy ra nắm cơm nếp và vài quả mận đỏ. Đưa sang. Đứa bé không ăn ngay, chỉ nhìn ông đăm đăm cái nhìn của kẻ không biết lòng tốt có thật hay chỉ là một chiếc bẫy khác. Nhưng rồi bản năng sinh tồn thắng thế. Nó ngồi bệt xuống bãi cỏ, ăn từng miếng nhỏ, nhai chậm như sợ hết mất.

"Cha mẹ cháu đâu?" Ông dịu dàng cất giọng hỏi thêm.

Cậu nhóc ngừng nhai, ánh mắt xa đi. Một lúc sau, nước mắt trào ra chạm phải chuyện buồn, nó khe khẽ cất giọng, nhỏ trong tiếng lá khô rơi:

"Họ chết rồi, từ lúc cháu còn chưa biết mặt mũi họ." Nước mắt rơi vào nắm cơm đang ăn lỡ dở, hạt cơm còn dính trên miệng nghẹn ứ. "Cháu...cháu...không biết mình nên bắt đầu từ đâu...và khi nào cháu đã lạc tới đây."

Câu trả thành thực của đứa trẻ thơ làm rơi xuống lòng ông một đá tảng. Không hỏi thêm gì, ông chỉ lặng lẽ ngẩng lên cười lạnh nhạt nhìn bầu trời nhạt sương. Rồi ông đưa tay ra, lòng bàn tay chai sạn giang ra trước mặt, lời mời gọi ấm áp vô cùng:

"Đi với ta."

"Mà bác là ai?" Đứa bé hỏi.

Lê Tự bật cười ha hả, rủ vai một cái ánh mắt lẫn gương mặt trong bộ râu lưa thưa làm thằng nhóc cứng dơ không hiểu. Ông cúi xuống, tay xoa đầu thằng bé đáp:

"Ta là Lê Tự, cũng giống như cháu, ta cũng mới bắt đầu thôi. Và..." Ông ngập ngừng như thể khoe một chiến tích. "Một người từng chết... rồi sống lại."

Thằng bé chỉ biết làm gì hơn ngoài gương mặt non nớt không hiểu. Một tay ông đã dìu nó, cả trong ánh mắt nỗi sợ hãi tan dần. Cậu nhóc cười một nụ cười tươi rói, ông nhân hậu thế kia làm sao làm hại nó được, bàn tay gầy guộc được ông dìu đi. Hai người không đi về mà hợp tác với nhau kiếm của rừng.

"Bác ơi, cây nấm này ăn được chứ ạ."

"Cháu đoán xem." Ông thu lại bó củi buộc lại ngay ngắn, cậu nhóc còn nhây thơ đưa từng cây lên ngắm nhìn. Bỗng thằng nhỏ làm ông nhớ ngay mình trong lúc nhỏ cũng lẻo đẻo theo cha rồi làm mấy hành động có phần kì quái giống như nó đang làm

....

Và từ hôm đó, trong căn nhà nhỏ giữa lưng núi Lam Sơn, có thêm một đôi dép con đặt ngoài cửa, một bát cơm con trong mâm, một giọng cười con vang lách tách mỗi sớm mai. Lê Tự đặt tên cho nó là Tiểu Lâm vì tìm thấy giữa rừng nhỏ, và vì ông tin những mầm cây sinh ra giữa bão giông thường cắm rễ sâu hơn kẻ lớn lên ở đất bằng.

Thời gian lặng lẽ trôi qua trên mái nhà nhỏ lưng chừng núi như dòng suối róc rách ngày đêm không ngừng nghỉ. Mỗi buổi sáng, khi sương còn đọng trên ngọn cỏ tranh, trong căn bếp lợp lá đơn sơ đã vang lên tiếng chén bát va nhau lẫn tiếng chân trẻ con chạy vụt ngoài sân, tiếng bà Diễm lầm rầm hát lại một khúc ru, không biết là hát cho ai. Tiểu Lâm từ một đứa bé hoảng hốt, câm lặng, dần trở thành hơi ấm trong mái nhà ấy. Cậu nhóc khôi ngô cũng khá tinh quái biết giúp ông quét sân, rửa rau, bưng gáo nước lá vối đặt nhẹ vào tay bà Diễm mỗi sớm. Bà vẫn lẫn có khi gọi nhầm nó là đứa em nào đã mất từ mấy chục năm trước, có khi cứ tưởng nó là đứa trẻ hàng xóm gửi nhờ, đôi lúc tỉnh táo lại châm chọc là con rơi, con vãi của ông. Nhưng điều kỳ lạ là bàn tay run run ấy mỗi bữa vẫn gắp đúng thức ăn vào cái bát trước mặt nó, và đêm về vẫn phẩy quạt, vỗ nhẹ lưng nó trong giấc ngủ mơ màng như thể chính bà đã từng sinh ra đứa trẻ này trong một kiếp khác.

Lê Tự không nói nhiều, ông vẫn quen dậy sớm thi thoảng lại luyện lại võ nghệ rồi gùi dao lên rừng đốn củi, trồng thêm khoai sắn sau nhà. Ông lội ruộng một mình, chậm rãi đắp bờ, Tiểu Lâm cũng biết làm đa số vài lần toàn ham vui mà quên mất, bà lúc tỉnh lúc mơ mà khi nào ra đây cũng kiếm nước sạch cho hai người kia.

Vào ban đêm, bên ánh đèn dầu leo lét và tiếng côn trùng rỉ rả, ông cầm que củi dạy Tiểu Lâm viết chữ lên nền đất. Đứa bé học nhanh như lửa bén rơm mới đầu còn viết nguệch ngoạc, sau một tháng đã nắn nót được tên mình. Ba tháng sau, nó đã có thể đánh vần từng chữ trong bức chiếu chỉ cũ treo trên vách thứ mà ông từng cất như một mảnh đời xa xăm.

Một hôm nọ, khi trời sắp chuyển mưa, gió đưa mùi hoa cỏ non vào tận hiên nhà, Tiểu Lâm đang rửa chân lại dở trờ dọc nước ở dưới chậu nước mưa nọ bỗng ngẩng lên hỏi:

"Cha... thật sự từng là tướng quân à? Bảo sao cha lại có mấy quyển sách thánh hiền."

Lê Tự không trả lời ngay, chỉ im lặng làm cho nó một món đồ chơi. Giọng trầm xuống như gió thổi qua vực sâu, ông dừng làm đi đến ngồi cạnh thằng bé tay chạm nhẹ cào ngực mình.

"Ở đây từng có một vết thương sâu hơn cả núi. Nhưng không phải vì kiếm đâm."

"Vì gì ạ?"

"Vì nhớ nhà."

Tiểu Lâm im lặng hồi lâu, giọng nó vang lên rất nhỏ giống như một chiếc lá rơi giữa chiều mưa:

"Con... có thể ở lại đây mãi không?"

Ông ngước nhìn nó dịu dàng, bàn tay thô ráp xoa nhẹ lên mái đầu xơ xác mà ông từng cứu khỏi bìa rừng. Giờ thì khác rồi chẳng còn mái tóc vô phép lẫn nhiều ghẻ, nếu cứ để vậy thằng bé có thể búi tóc lên cho gọn gàng giống như ông. Kể ra hai người cũng có nhiều điểm giống nhau thật, giống từ cái màu áo hay mặc lẫn sở thích là thổi sáo. Ông dạy thằng nhỏ thổi sáo, mấy khi ông rảnh hoặc ông kiếm cớ nó tinh ranh luôi kéo bà về phía mình, bắt đất dĩ ông phải lắng nghe. Lâm thổi còn non nhưng không đến nổi tệ có chỗ cũng hay ra phết. Mà gặp người ngoài thay vì khen ông nó lại đem mấy chuyện xấu kẻ cho mấy bà thím nghe đổi lại là mấy bà đó cho nó ít hoa quả trong vườn. Ông tức lắm, tức đến ói máu mà lúc về nhà định đạy dỗ nó lại núp sau bà ăn vạ nói ông bắt nạt nó.

Gió lại thổi qua mái tóc, cõi lõng trùng xuống mang theo tiếng lúa thì thầm ngoài ruộng.

"Nếu con muốn. Nơi này luôn là đợi con về."

Chẳng còn lý do gì để nghĩ đến việc rời đi, Tiểu Lâm chấp nhận ở đây mãi mãi, sẽ làm đứa con hiếu thảo chăm sóc cho ông bà. Ông Tự khi ấy đã lấy họ Lê của mình đặt tên húy thằng bé là Lê Lâm. Mỗi lúc cùng ông ra ngoài hay cùng bà ra chợ nó luôn cười tự hào khi mang cái tên ấy. Cũng nhờ đó mà bà dần tỉnh táo lại hơn, cái vẻ khuôn còn dở dở ươn ươn cũng có nhưng so với xưa là có tiến triển tốt. Mỗi lần bà tỉnh táo lại quen gọi.

"Lâm, ra chợ với mẹ. Nay con phụ mẹ nhiều việc ra chợ mẹ mua quà cho con. Mà đừng nói với cha nha."

"Dạ vâng."

***

Một sớm đầu ngày nọ, Diễm chơi đùa với Tiểu Lâm ở phía sau nhà. Bầu trời có mây lững lờ trôi trên đỉnh Lam Sơn. Gió nhẹ quệt qua vườn rau mới nhú mầm, mang theo hương đất ẩm và chút vị ngai ngái của cây ngải mọc ven bờ giếng cạn. Lê Tự ngồi bên bàn trà tre, tay rót nước sôi vào ấm sành cũ kỹ, hơi nóng bốc lên như khói bếp, lặng lẽ vô cùng. Ông thu lại những lá thư mà đồng đội gửi cho đa số bảo ông rời khỏi đây về kinh làm quan. Mỗi lần như thế ông luôn giấu thậm chí lúc Lâm lén đọc trộm ông trợn mắt đòi dọa cho nhịn ăn thịt. 

Một bóng người bước qua lối mòn dẫn từ chân núi đi vào. Đó là Đoàn Tín bạn cũ thuở quân ngũ, nay đã là An phủ sứ một vùng. Vạt áo giao lĩnh(3) màu lam nhạt nho nhã, tay cầm quạt giấy, đối khâm(4) màu đỏ phấp nhẹ tronh gió, ánh mắt hơi ngỡ ngàng trước cảnh vườn đơn sơ mà thanh sạch.

"Tự là ông ư." Hai người gặp nhau không giấu nổi cảm xúc bèn ông lấy nhau, rưng rưng cảm xúc vỗ nhẹ lên lưng cả hai. Lát sau, họ ngồi đối ẩm trong thinh lặng. Chỉ có tiếng gió lay bụi hành sau nhà và vài giọt sương sớm còn vương trên lá cải.

"Tự..." Đoàn Tín cất giọng chậm rãi, "Ông về đây ẩn dật thật sao? Triều đình vẫn nhớ công cũ. Nếu muốn, ta có thể dâng tấu xin cho ngươi làm Tri huyện vùng Sơn Nam. Chốn núi rừng này... chẳng hợp với một người bao công lao như ông đâu."

Lê Tự không đáp ngay, ông rót thêm trà, mắt dõi theo đàn bướm vàng bay là là trên bãi cỏ. Một lúc sau, ông mới nói, giọng khẽ như gió thổi qua khe lá:

"Tôi từng thấy một người chết vì giữ một khoảnh đất. Còn tôi... giờ chỉ muốn giữ người. Không giữ đất nữa."

Đoàn Tín thở dài. Hơi trà trong miệng như đắng thêm. Ông biết, dẫu có mang cả ấn tín triều đình đến, cũng chẳng lay được ý chí trong lòng người bạn trước mặt. Hôm ấy lấy cớ thăm bạn cũ, trước khi rời đi ông còn vẫy tay gọi Lâm lại gần lấy trong túi áo ra vài viên kẹo mật.
Thằng bé đan hai tay vào nhau cúi thấp người cảm ơn rồi chạy lại gần bà kheo lên. Hai người bước đi cùng nhau, thời gian khiến cả hai nhớ lại, Đoàn Tín từng nọ ông một ân tình nếu khi ấy tiếng gọi mơ hồ ông không nghe thấy chắc đã bỏ mạng ngày ấy. Đoàn Tín dừng chân dưới giàn mướp hoa vàng, bước đi lại gần trao cho ông vị trí nơi mình ỏe.

"Nếu một ngày đổi ý, cứ gửi thư cho tôi. Nơi này khổ thật nhưng mắt ông... lại sáng hơn đám quan ngồi phủ."

Lê Tự bật cười nhạt nhìa, hai tay nhận lấy nảnh giấy, đưa mắt sang hai bóng nhỏ trong vườn, nơi bà Diễm đang lúi húi vá áo, còn nhóc Lâm lom khom tỉa mấy luống rau, miệng ngân nga một câu hát trẻ con ông từng dạy. Khoảnh khắc ấy, ông thấy lòng mình nhẹ bẫng tựa như áng mây ngang đỉnh Lam Sơn nhẹ hơn cả ngày cởi áo giáp sau chiến thắng, nhẹ hơn mọi khải hoàn xưa cũ. Một thứ bình yên không có trong sách phong, không tìm được giữa đao binh chỉ có nơi đây, giữa mảnh đất nghèo mà tình người ấm hơn nắng sớm.

______________

Mùa hè năm ấy, trời Lam Sơn cứng như vỏ quả khô, không một giọt mưa rơi suốt gần ba tháng ròng. Nắng chát ngày này nối ngày khác trút xuống mái rạ, hun đám ruộng nứt toác như da người già, làm sông Lam chỉ còn vài vũng nước lưng chừng, lẫn xác lá mục và những thân ếch khô cong như cỏ cháy. Vườn khoai sau nhà ông cũng táp lại, từng rễ củ nhăn nheo như sợi thừng cũ vắt ngang đất cằn. Dân làng bắt đầu rối loạn, người lên núi lùng suối, kẻ đào giếng đến tận lòng đá vẫn không thấy nước rỉ. Trẻ con sốt mê man, người già thì khát đến lả đi. Chỉ nhờ có khe nước ngầm cuối vườn và chiếc bờ trữ cũ từ mùa lũ năm trước mà nhà ông còn cầm cự được. Nhưng lòng ông không lúc nào yên.

Một chiều nọ, ông vừa cất con dao rừng, người hàng xóm vội vã chạy sang, mặt mày tái mét:

"Ông Lê! Đám cường hào ở huyện kéo lính về thu thóc cứu đói, ép dân bán gạo giá cắt cổ. Chúng bảo là lệnh vua, nhưng người làng bảo toàn bọn đầu trâu mặt ngựa. Ai không nộp thì bị đánh, có nhà còn bị trói đem đi!"

Ông vừa đặt chén cơm xuống thì Tiểu Lâm níu áo, mắt đỏ hoe khi bà đang nằm ở đa đăng kia hôn mê tuy đã thuốc thang nhưng bà còn yếu lẫn trạng thái kia thì không thể hồi phục nhanh như mọi người

"Cha... đừng đi..."

Ông cúi xuống tay vuốt tóc mái tóc búi gọn con, giọng trầm mà ấm vô cùng:

"Ta không đi đánh giặc. Ta chỉ muốn hỏi cho rõ: ai đang cướp bát cơm khỏi tay người nghèo."

Phía góc nhà, Diễm nằm yên như cảm nhận lặng lẽ mở mắt ngước nhìn một phiad. Đôi mắt đã mờ từ lâu, nay ánh lên loáng nước. Bà không nói gì cả, rơi nhẹ vào giọt lệ.

Ông ra chợ làng. Dưới bóng đình tre, ba tên lính áo đỏ tay lăm lăm giáo, đứng gác bên xe trâu chất đầy bao tải gạo. Một viên lại mục ngồi trên ghế tre, miệng nhai trầu, tay lật sổ lạch cạch:

"Gạo này thuộc kho lương Đông Kinh phân phát. Ai không nộp là chống chỉ dụ của triều đình!"

Lê Tự bước ra. Dáng ông gầy đi sau bao mùa đất khô, nhưng ánh mắt vẫn bình thản như mặt hồ không gợn:

"Ngươi là ai, dám nhân danh vua để ép dân giữa mùa nắng hạn?"

Tên lại mục khựng lại khi nhìn rõ mặt ông. Môi hắn mím chặt:

"Ông là... Lê Tự? Tuyên võ lang? Sao lại ở đây?"

"Vì đây là quê ta. Những người này, là dân ta từng liều mạng mà bảo vệ."

"Ông về quê cày ruộng thì lo mà cấy lúa. Việc triều đình không đến lượt ông hỏi!"

"Vậy triều đình nào cho phép lính đánh dân, cướp thóc, ép bán gạo thối giá vàng?"

Tên lính sau lưng gầm lên, định xông tới. Nhưng Lê Tự chỉ nhìn thẳng. Một ánh nhìn lặng như sấm nén. Ngày trước, ánh mắt ấy từng khiến giặc Minh lui ba trại. Bọn lính run tay. Ông bước tới, giật lấy tờ chiếu chỉ giả, ném xuống đất. Rồi ông quay về phía dân làng, giọng vang lên giữa nắng chiều khô khốc:

"Ai có thóc, ta xin góp. Ai thiếu nước, ta sẻ. Nhưng gạo từ tay bọn gian thương mang tiếng người nhà đội mũ quan, không ai trong làng này phải mua những thứ dơ bẩn!"

Dân làng im lặng một thoáng. Rồi một cụ già chống gậy bước ra, lưng còng nhưng giọng vững:

"Nếu Lê tướng quân còn giữ lòng nghĩa, chúng tôi xin theo!"

Ông không nói gì, chỉ khẽ gật. Chiều hôm đó, làng chia nước theo nhà, hái rau dại, nấu cháo thay cơm. Ông cùng đám trai làng đào rãnh dẫn nước, dựng lều cho người già, dạy lũ trẻ giữ mình giữa trời nóng như nung.

Lúc bà khỏe lại trời chẳng thương, Tiểu Lâm phát sốt.

Cơn sốt đến đột ngột. Trán bé nóng ran, tay chân co giật, môi khô khốc. Diễm ngồi bên, lặng lẽ giữ tay bé. Đôi mắt bà, từng đục mờ như tro tàn, nay chợt dâng đầy nước như linh cảm nỗi đau đang lặng lẽ gõ cửa. Lê Tự nấu lá rừng, chườm lạnh, thay vải liên tục. Nhưng ba ngày trôi qua, cái sốt không hạ. Bà Diễm bên cạnh hát ru cho con, lời ngọt để đưa Lâm tự tin bản thân sẽ khỏi...Nhưng một ngày, hai ngày... Ông đành phải cõng con băng rừng xuống trạm y viện cũ cách ba dặm. Ở đó, chỉ còn vài ông lang quê, thuốc men cạn sạch.

"Muốn cứu, phải có rễ bạch truật, hoặc mật gấu... chí ít là thuốc cam từ Kinh. Những thứ ấy, chỉ người có chức quyền mới có được."

Lê Tự không nói. Ông cõng con quay về. Dọc đường, Tiểu Lâm thiếp đi, thều thào:

"Cha... đừng để con ngủ mãi..."

Tối hôm ấy, ông ngồi trước hiên nhà trầm ngâm, gió đêm khô khốc, trời Lam Sơn mù mịt mây đen. Trong lòng ông cuộn lên ký ức trận Chi Lăng ông từng nằm bất tỉnh bên bờ suối, máu ướt cả áo, tưởng không sống nổi. Nếu không có người dân áo vải ấy đã không màng hiểm nguy kéo ông về, đắp thuốc lá rừng bảy ngày bảy đêm... có lẽ giờ đã là nắm xương trong rừng vắng. Thì nay, ông không thể để con chết. Dù không máu mủ ruột rà, nhưng là một sinh mạng mà ông đã dang tay cứu lấy giữa lúc trời đất khát khô và lòng người khô hơn nữa. Và nó cũng là niềm hy vọng sau này nó thay ông làm điều phải với đất nước. Sáng hôm sau, ông gói hành trang, bọc túi bạc cuối cùng và cuốn chiếu chỉ phong tặng. Ông dặn Diễm:

"Ta đi một chuyến. Ba ngày sẽ về. Hãy giữ cháu... như ngày xưa bà từng giữ ta."

Diễm lúc ấy không tỉnh táo nên ông mới dặn như thế, bàn tay bà vô thức run run siết lấy vạt áo ông như không nỡ buông. Ông xuống phủ huyện, mang chiếu chỉ đến thẳng nhà An phủ sứ Đoàn Tín bạn cũ năm xưa.

Khi Tín trong bộ quan phục bước ra, thấy ông sững lại nở niềm vui

"Ông nghĩ kỹ rồi à... đến cầu quan?"

"Không. Tôi đến đây cầu thuốc để cứu người."

Ông đặt bọc bạc tích góp lên bàn, rồi lấy ra bức thư viết vội đêm qua:

"Nếu từng đọc sách thánh hiền, thì xin ông cứu một sinh mạng."

"Ra là vậy." Đoàn Tín đẩy túi bạc lại trước mặt ông cười nói. "Ân huệ năm xưa ông cứu tôi, Tín này luôn nhớ rõ. Tôi vẫn luôn tôn trọng quyết định ở ông."

Vị quan ấy ngồi dậy tự mình lấy ra những loại thuốc quý, còn chu đáo chỉ ông cách sử dụng hợp lý và hiệu quả.

"Cảm ơn ông." Hai người bắt tay nhau không vì phẩm trật và giai cấp. "Mau đi đi, ông hãy giữ hạnh phúc của mình."

....

Ba ngày sau, Tiểu Lâm hạ sốt còn tinh nghịch hiếu động chạy ra ngoài vườn rau. Bầu trời Lam Sơn vẫn chưa mưa, nhưng trong lòng Lê Tự đã có một tia mát lành len vào.

Trận hạn kéo dài cả mùa hạ, cuối cùng cũng chịu lùi bước trước cơn mưa đầu thu trút xuống núi Lam như dòng lệ của trời. Nước từ rừng cao ào về, đổ trắng xóa như bạc, chảy qua khe đá, lấp đầy lòng sông Lam tưởng chừng đã chết khô. Những thửa ruộng nứt nẻ giờ mềm trở lại, được phủ một lớp phù sa óng mượt như tấm áo đất vừa thay. Người dân nắn lại bờ, xới đất, gieo từng nắm giống như gieo lại hy vọng. Không chỉ vì mùa đổi gió mà vì họ biết họ còn có nhau.

Đầu năm sau, trong gió lạnh se sắt, người làng kéo nhau đến nhà Lê Tự. Họ mang theo chút lễ mộc mạc đáp lễ cho sự giúp đỡ của ông, là mớ cá suối còn tươi quẫy, chén gạo nếp thơm đầu vụ, và một xấp vải nâu, có cả chiếc khăn thêu bằng tay dòng chữ run rẩy nhưng rắn rỏi:

"Dân ơn một người, làng sống cả đời."

Ông nhìn những món quá, rồi lặng lẽ lắc đầu, chỉ nhận một bó lúa non còn thơm mùi mạ. Tay còn lại, ông đưa ra đỡ lấy Diễm - người phụ nữ đã từng lạc lối giữa cơn mê dài, giờ đây ánh mắt đã sáng rõ có mặt trời nhỏ trong đáy sâu. Bà mỉm cười nhẹ, tay còn nắm lấy nhóc Lâm ánh nhìn thẳng về phía trước, giọng run trầm ấm:

"Hạnh phúc... là được ngồi dưới mái nhà do người mình thương dựng lại."

"Hừm." Ông thở nhẹ trong lòng, ba bóng người cứ thế trầm ngâm nhìn cảnh quanh nhà. Bà đưa tay cầm một cành đào, môi mím lại chốt lát rồi ngẩng mặt nhìn về phía trước giữa cơn gió từng cánh hoa cỏ lá phiu phiu bay về trời.

"Tiểu Lâm! Mang sáo tre ra đây. Hôm nay ta thổi bản đầu tiên... của năm mới."

Tết năm ấy ở làng nhỏ dưới chân núi Lam không pháo, không trống, không cờ xí rực rỡ. Nhưng từng mái nhà êm đềm khói bếp, và từ căn nhà lợp tranh của Lê Tự, tiếng sáo vang lên cao vút thật thanh trong, réo rắt có thể nghĩ đến mạch suối vừa bật lên từ lòng đất.

Tiểu Lâm đã khỏi bệnh hẳn. Mặc áo áo giao lĩnh cũ, má đã ửng hồng, bé lại chạy lăng xăng quanh sân, hỏi mây, đuổi gió, thả tay vào đám tre non, lẫn gốc cây già nơi lũ chim sẻ ríu rít trong tổ mới. Tiểu Lâm rút cây sáo thổi từng nốt nhạc mang đi cho đời nghe. Lúc ngừng lại trầm ngâm đọc những câu trong ngũ thư, tứ kinh về người quân tử mà ông đã dạy. Cũng qua thời gian bà Diễm đã tỉnh dần. Mắt bà có ánh nước long lanh như hôm nào ở bến sông, thuở lần đầu ông đưa tay kéo bà khỏi dòng nước xiết của một đời lưu lạc.

Một sớm, bà ôm bó rau răm lên, chìa ra trước mặt ông với hàm ý khoe ông, mắt ánh nụ cười tinh nghịch:

"Ngày trước... ông hay ăn gà luộc với rau răm thế này đúng không? Ông còn nói có tôi bên cạnh thì ngon nhiều lần."

"Ờ." Rất lâu rồi, bà mới gọi ông là "ông" không phải trong giấc mơ mơ hồ, không phải trong cơn quên nhớ nhạt nhòa, mà là tiếng gọi của thực tại, dịu dàng mà sâu xa. Ông gật đầu, đôi tay giơ lên không trung dạy Lâm thổi sáo sao cho hợp lí, ông bật cười đáp:

"Phải rồi. Mùi này... làm ta tưởng mình còn là thằng trai trẻ, lần đầu thấy bà mặc áo cỏ may mà đứng lặng không nói nên lời." Bà đỏ mặt ngượng ngùng, quay mặt đi nhưng rồi lại ngồi xuống bên cạnh ông. Tiểu Lâm cầm cây sáo chạy ra hiên nhà, hai người cũng theo đó dắt nhau ra ngoài cùng nhìn ra phía xa cánh đồng vừa cấy lại. Trăng đầu tháng vắt qua lưng trời, cong như cánh liềm gặt sớm hay như dáng bà thuở xưa ông đỡ xuống ngựa trong một chiều khói lửa.

Từ sau hạn đói năm nọ, dân làng thôi gọi ông là "tướng quân". Họ gọi ông bằng những cái tên rất thường: "ông Lê", "cha Lê", "ông Lê ở bên khe" như thể ông chưa từng cầm gươm chém giữa trận địa, chỉ là người đã chia nước, nhường gạo, và che chắn cho họ như cái bóng mát giữa ngày hè.

Lũ trẻ con lớn lên, theo ông học trồng cây vừng, đắp rãnh nước, học cách nhìn mây để đo mưa, nghe chim kêu để đo đất có hôm ông và Tiểu Lâm dạy chữ. Người già hay người vào rừng kiểm củi thường hay lui tới ngồi trước sân trên chiếc chõng tre, đan hai tay vào nhau xin ông kể chuyện ngày xưa về lần ông ăn cơm cùng Thái tổ Cao hoàng đế(5) nơi rừng thiêng Chí Linh về chén rượu chiến thắng đêm mưa to mà tất cả đã cạn, còn ông thì chỉ nhấp môi, vì còn phải chôn người đồng đội thân nhất. Ông chưa từng từ chối, nhưng mỗi chuyện chỉ kể một nửa. Phần còn lại, ông gửi gắm vào tiếng sáo tre thổi mỗi đêm trăng rằm buồn mà không bi lụy, vui mà không rộn ràng, như có linh hồn đang thì thầm qua ống sáo.

Rồi một hôm, có người từ Kinh thành tới, mang theo phong thư đóng ấn son của triều đình. Vua Lê Nhân Tông, còn rất trẻ, nghe tin có một cựu tướng giữ làng trong thời đói loạn, muốn mời về phục chức, dạy võ, dạy trị nước. Lê Tự mở thư, rồi gấp lại, đặt vào rương cùng bộ áo chống giặc năm xưa đã cũ đã hoen rỉ. Ông không gửi hồi âm, chỉ chắp hai tay sau lưng lặng lẽ ngắt một cành hoa cúc dại cắm lên bàn thờ người xưa, rồi khấn vái:

"Thần phận ta đã hết. Danh vị ta không cần. Điều ta giữ bây giờ... là mảnh đất này, là người đàn bà ấy, là đứa trẻ này và là chính ta, mỗi khi trăng lên trên mái nhà này."

Nhiều năm sau, có những người lạ đầu đội nón lá ghé qua làng, hỏi thăm "ông Lê giữ núi", xin được viếng mộ. Mộ ông nằm trên sườn Lam Sơn, giữa rừng cúc dại, nơi ấy bà và nhóc Lâm hay lui lại chăm sóc và trông non, trên bia có khắc dòng chữ vỏn vẹn:

"Lê Tự người thổi sáo khi trăng sáng."

Trên bia tên húy đặt lên trang trọng, Lê Lâm và bà Diễm hay đặt những thứ hoa quả, cánh hoa...Ông ở đó, nơi mà ông an nghỉ có thể nghe tiếng róc rách của dòng suối, nơi mà ông có thể nhìn về quê hương ngày một đi lên sau những gì ông cống hiến.

"Ta vẫn nhớ..."

Người ta kể lại rằng, hôm ông mất trời không mưa nhưng sương phủ dày đặc, mù tựa như tấm khăn trắng che ngang trời. Bà Diễm ngồi bên quan tài, tay vẫn nắm lấy ông không buông. 

"Vậy là ông bảo... sẽ đi thổi trăng chỗ khác."

....

Bà khi ấy đã trở lại bình thường, duy chứng để lại là những ngày mưa lớn hay rét lạnh bà sẽ tê người, run bần bầt. May sao Tiểu Lâm là chỗ dựa, là niềm an ủi phần nào vắng bóng ông. Hai mẹ con sống trong căn nhà ấy, bà tận lực giúp con có thời gian chăm tâm học tập, có cháo ăn cháo, có rau ăn rau. Vào một ngày nọ, bà thắp hương cho ông rồi mở di chúc của ông để lại, trao cho Lê Lâm thanh kiếm của ông và cây sáo tre quen thuộc. Cũng qua năm đám giổ của ông, bà cũng theo ông...Ngày ấy bầu trời đêm im lặng chỉ vỏn vẹn tiếng của núi rừng, Lê thở nhẹ thắp hương cho mộ ông bà thì thầm.

"Cha mẹ hai người ở đó có hạnh phúc không? Con...cảm ơn vì hai người đã đem lại hạnh phúc cho con." Nói rồi Lê Lâm phủi áo đứng dậy mỉm cười. "Con thổi sáo cho hai người nghe nhé!"

Lê Lâm trong dáng vẻ của cậu thanh niên chính chắn, tay cầm cây sáo của ông chậm rãi thổi mang theo tâm tình gửi gắm. Cậu chàng thay mặt cha mẹ, gánh tiếp ruộng đồng, giữ đất, giữ làng nối chí ông và còn là người hương khói cho ông bà. Vào một khoa thi nọ, Lê Lâm đã đỗ tiến sĩ và ra làm quan. Công việc bận rộn đến đâu, cậu chàng cũng sắp xếp vào ngày giỗ ông bà vào mùa thu. Lạ lùng thay, ngày ông mấy rồi bà mất cũng là một ngày thu, cũng là gần ngày vọng(6).

Vào mỗi mùa thu, cậu chàng trong bộ giao lĩnh lam nhạt, đối khân phấp nhẹ trong từng cơn gió rừng, cậu lại thổi bản sáo cha để lại bản không có tên nhưng ai nghe cũng gọi là:

"Khúc hạnh phúc dưới chân trời Lam."

HẾT.

__________________

Chú thích:

(1) Đông Kinh: tên gọi của Thăng Long thời Lê sơ.

(2) Lê Thái Tổ: Tức Lê Lợi.

(3) giao lĩnh: áo cổ chéo, thường là 7 hoặc 9 thân (ghép từ bảy hoặc 9 mảnh vải), tay dài (ống rộng hoặc ống khít), vạt dài đến mắt cá chân hoặc vạt ngắn.

(4) đối khâm: là trang phục của người Đại Việt thời Lê sơ: Áo tứ thân ngoài, với hai vạt cổ áo song song đối nhau ở phía trước, nhìn rõ được lớp áo giao lĩnh mặc bên trong, thường xẻ tà hai bên, độ dài chưa chạm đến cổ chân.

(5) Thái Tổ cao hoàng đế: Tức vua Lê Thái Tổ Lê Lợi.

(6) ngày vọng: là ngày rằm.


0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout