- Í da! Mẹ lên mẹ lên! Thôi em phải đi rồi.
Nó định đi ngay, mà rồi vẫn cố nán lại, níu vai tôi và nhón chân để hôn vội lên má tôi một cái, xong chạy ù ra ngoài, tất tả mang theo ba-lô hành lý xuống dưới với dượng.
- Dạ, con xuống liền xuống liền!
- Lẹ lên! Lần sau là để mày đi xe buýt đó nghe chư... Ủa từ đã! Nón đâu?
- Í! Con quên! Dạ thôi, thưa mẹ con đi học! Anh ơi! Em đi học đã nghe! Nhớ anh nhiều lắm đó! Tới thứ Bảy... Ái da!
- Nhớ? Nhớ nè!
- Ủa? Sao tự nhiên ký đầu co... Úi chu cha! Ba ơi! Mẹ oánh con kìa!
- Méc hả? Nghĩ sao không oánh? Ba mẹ nuôi ăn học cho lớn bằng này mà hổng có bao giờ nó nói một câu nhớ ba mẹ hết, hen! Thiệt tình con với cái luôn á!
- I hi hi! Mai mốt con theo chồng về bển rồi thì con mới nhớ ba mẹ được, chứ giờ đang ở xa chồng nên cứ phải nhớ chồ... Á! Á!
- Chồng? Chồng nè! Ai chồng mày? Hả?
- Í da! Vọt lẹ ba ơi! Ba ơi!
- Nè! Lần nữa là coi chừng mẹ mày ớ nghe đồ quỷ kia!
Tôi xuống cùng với dì để chào nó và dượng. Lúc dượng chạy xe ra tới cổng rồi, nó ngồi sau, vẫn ngoái đầu lại vẫy tay với tôi, còn cười tươi như đang vui chuyện gì dữ lắm. Nói thiệt là nhìn nó như vậy cũng thấy không nỡ, sâu thẳm trong lòng tôi không muốn nó phải chịu tổn thương vì tình cảm bị khước từ. Nhưng quả thực chuyện này tôi không thể chiều theo ý nó. Tôi chỉ có thể làm anh của nó thôi. Phần vì tôi muốn thương nó như thương một đứa em gái; phần vì tôi nghĩ dì dượng sẽ không ưng khi thấy anh em tôi không còn vô tư hồn nhiên bên nhau như ngày xưa nữa. Bởi vậy nên, cho dù nó có bày trò cưa cẩm tôi như thế nào thì tôi cũng sẽ quyết không lay động. Cùng lắm nếu tôi không thể trực tiếp nói lời từ chối nó để khỏi khiến nó tổn thương thì có lẽ sau này khi quay lại Hà Nội, tôi vẫn sẽ ít nhắn tin với nó cho tình cảm của nó vơi dần, đợi chừng vài năm, một đứa Nam một đứa Bắc, từ từ nó sẽ quên tôi đi để mở lòng đón nhận một thằng con trai khác, phù hợp và xứng đáng hơn với nó.
Ừm, cách này coi bộ hơi bị ổn. Hổng ấy cứ làm vậy đi.
Theo dự định thì sáng nay dì sẽ cùng tôi qua nhà ba để tôi thắp nhang cho ông bà tổ tiên, hai bác cùng với mẹ và anh hai nhân dịp về quê sau bảy năm sinh sống ngoài Hà Nội. Đáng ra việc này tôi phải làm trước nhất, ngay khi tôi về thăm ba; nhưng ba đi vắng, mà tôi thì không có chìa khóa nhà nên hôm nay phải làm bù để tạ lỗi với mọi người.
Vốn dĩ trước đây ba tôi thường xuyên đi vắng nên có giao chìa khóa cho chú thím và dì dượng tôi, nhờ hai gia đình thi thoảng lui tới thay ba coi sóc, ít nhiều cho nó đỡ hiu quạnh. Chứ hồi ba mới đi, không có để tâm gì chuyện đó, nhà bỏ hoang cả gần tám tháng trời, thiệt ta nói nó không khác gì cái thành phố trong mơ của lũ chuột với cú lợn luôn á mấy ông.
Nhớ hồi đó, ba tôi tạm ngưng việc tu tập ở chùa để về nhà ăn Tết và phụ giúp việc cúng kiếng cho ông bà tổ tiên với chú tôi. Thế là sau gần tám tháng, cánh cửa chính nhà ba tôi mới được mở ra lại. Mà chu cha ơi nó khủng khiếp gì đâu ớ kìa! Mùi ẩm mốc quyện với mùi của phân gián phân chuột, có cả mùi xác chết nữa chứ; chúng nó xộc ra làm cho ba tôi phải tạm lánh ở ngoài sân nguyên một buổi sáng, đợi cho gió lùa bớt đi thì ba mới dám vào trong để lau chùi dọn dẹp. Mà đâu, đâu có riêng mình ba thôi đâu, vì ba phải đi kêu cứu ngay trưa hôm đó đó chớ. Cuối cùng báo hại cả dì tôi, hai chị em thằng Khoai con Bắp nhà chú thím, ông Bo con bác hai, rồi tôi và con quỷ em tôi nữa; tất cả là bảy người, chiều hôm đó dọn xong, về nhà tắm rửa sạch sẽ rồi mà hổng ai buồn ăn cơm luôn thiệt. Nguyên nhân chính bởi có một con mèo nó nằm chết trong nhà bếp hình như vì bị điện giật hay trúng bã chi đó không rõ; nhưng đại loại là cái mùi của nó khiến mấy người tụi tôi ai cũng ngao ngán tới mức đau đầu, thậm chí con Bắp và quỷ em tôi, hai đứa nó đã phải ói mửa tới mấy bận, tiếp tục báo hại tôi với thằng Khoai đi dọn cả “bãi chiến trường” do hai đứa nó bày ra mới thảm chứ. Ờ, suốt mấy tiếng đồng hồ trên người chỉ toàn mùi không là mùi, giờ nhớ lại vẫn còn ám ảnh cái buổi chiều kinh dị của ngày hôm đó lắm luôn.
Bị một phen nhớ đời, tụi tôi mới năn nỉ mọi người mà chủ yếu là chú thím và cậu mợ khuyên ba tôi đừng đi tu nữa, cứ ở nhà để có người coi sóc nó, rồi thi thoảng anh em họ hàng hay bà con chòm xóm còn lui tới thăm nom ba, cho ba đỡ buồn. Chứ ba cứ đi hoài vậy, riết rồi nhà như cái nhà ma á. Mỗi lần giỗ chạp, lễ Tết cần phải cúng kiếng mà như vầy nữa thì mẹ với anh hai tôi sao dám về ở.
Ba tôi thấy cũng đúng, nhưng ba lại chưa muốn từ bỏ việc đi tu. Mặc dù ba không có xuống tóc, nhưng ba tu rất nghiêm túc và kiên định. Thành thử cuối cùng ba mới giao lại chìa khóa cho mọi người, mong mọi người giúp ba trông nom nhà cửa, để nếu dì dượng và chú thím tư có bận thì chí ít cũng để mỗi thứ Bảy hoặc Chủ nhật tôi với ông Bo lại về bên nhà quét dọn giùm ba. Sau một hồi bàn định, mọi người cũng đồng ý.
Vậy là kể từ đó, ba tôi xin rước bát nhang của ông bà tổ tiên cùng với hai bác tôi từ bên nhà chú thím về nhập chung vô thành từ đường. Bởi hồi thím tôi đi coi, nghe thầy bảo mặc dù theo phong tục (ở miền Nam) thì chú tôi đảm trách phần việc hương hỏa nhưng cửu huyền thất tổ lại đồng lòng chọn ba tôi làm người nối giữ thờ tự. Này có lẽ vì ba đi tu nên tổ tiên cũng muốn nương nhờ chút phước đức; chứ dòng họ tôi, nghe nói nghiệp dày phước mỏng, tới tận đời con cháu hôm nay nhìn chung còn phải trả nợ nhiều.
Và trong suốt bảy năm qua, nhà chú thím (tất nhiên phải có cả ông Bo) vẫn thường xuyên thay ba tôi coi sóc ban thờ cùng với nhà cửa rất đều đặn, lâu lâu có dì dượng tôi phụ giúp nữa. Cho nên khi hai dì cháu tôi tới nhà và mở cửa ra, mùi thơm của tinh dầu quế nó khiến tôi vừa thấy yên tâm lại vừa dễ chịu. Dòm đồng hồ lúc đó là gần 8 rưỡi, hai dì cháu tôi trước tiên sẽ quét tước, lau chùi ban thờ thêm một lần trước khi tôi thắp nhang, sau đó ghé qua nhà chào chú thím rồi tới trưa đi đón bé Chép là vừa.
- Nè, khăn với chổi lông gà dì để bên kia. Lâu lâu mới về thì dì nhường cho làm hết trên ban thờ luôn đó, còn lại sân vườn để dì tự xử.
- Dạ.
Tôi ra sân lấy thau nước để vào quét dọn lau chùi, xong thì xếp quà tôi mang từ Hà Nội cùng với trái cây hồi nãy hai dì cháu ghé chợ mua lên dĩa thay cho mấy hộp bánh quy, cẩn thận trưng lên từng bàn một.
Cả ban thờ có sáu bàn, sáu bát nhang; nhưng lại có tới bảy linh vị. Tính từ trên xuống dưới theo thứ tự là Phật Bà Quan Âm, thấp hơn là tổ tiên tôi từng có bốn đời làm quan triều Nguyễn, kế dưới là ông bà nội tôi thì làm việc cho chính quyền Sài Gòn, qua bàn dưới nữa là vợ chồng bác hai tôi thì phục vụ cho cả hai chế độ, phía bên này ngang với bàn của hai bác là mẹ tôi, tới bàn thấp nhất là anh hai tôi. Tất cả là sáu bát nhang như tôi vừa kể đó; chỉ duy có một vị trí nằm chung bàn và thấp hơn một chút so với tượng Phật Bà là một tấm bài vị làm bằng gỗ có ghi chữ Nho (giống tấm bài vị của tổ tiên bên dưới) mà không có bát nhang nào, cũng có dĩa bánh đặt ngay phía trước như các bàn thờ còn lại.
Tò mò, tôi ra hỏi dì coi sao thì dì bảo đó là thần chủ (bài vị) của Bác. Vốn dĩ ở đó có tấm hình mà ba tôi thờ Bác Hồ á, nhưng vừa rồi nó bị hư nên ba tôi phải bỏ nó đi. Tới bây giờ ba vẫn đang tìm chỗ làm tượng chân dung nhỏ của Bác mà chưa tìm được, thành thử mới phải để tấm bài vị ghi bằng chữ Nho ở đó để thay thế.
- Dạ, nhưng rồi sao ba con không thỉnh bát nhang luôn dì ha? Để nó trống không vậy thấy kỳ.
- Thì hồi dì cũng có hỏi, mà ba mày kêu là hổng có thỉnh được. Tại vì Bác là anh hùng dân tộc của cả đất nước mình rồi, Bác lại không có con cái nên chỉ có những nơi như đền miếu chùa chiền hay tượng đài của chung mọi người thì mới được thỉnh bát nhang rồi đặt ở đó thôi, chứ mình thờ riêng ở nhà thì hổng có được làm vậy.
À.
- Mà nói vậy chứ, có cái dĩa bánh dì để trước thần chủ của Bác là mày nhớ thay luôn đó nghe, đừng có để trống, rồi chừng nào xong thì kêu dì vô dì thắp nhang với mày.
- Dạ con xong rồi nè, dì vô luôn đi.
- Ời, để dì rửa tay cái đã.



Bình luận
Chưa có bình luận